Nhiều người cho rằng tranh chấp với Trung Quốc về giàn khoan 981
hiện nay là « bế tắc », là « nan giải ».
Đúng vậy, thật là nan giải khi ta đọc lời « giáo
huấn » của Dương Khiết Trì (thông qua Tân Hoa Xã), dạy dỗ VN trong cuộc
gặp gỡ với Phạm Bình Minh hôm qua :
" Ủy viên Quốc vụ Dương Khiết Trì chỉ rõ, đối với
vấn đề trên biển hiện nay, hai bên cần phải xuất phát từ đại cục
gìn giữ quan hệ giữa hai Đảng và hai nước, tránh mở rộng, làm phức
tạp và quốc tế hoá vấn đề liên quan.
"Điều bức xúc nhất hiện nay là Việt Nam cần phải
đình chỉ quấy nhiễu đối với sự tác nghiệp của Trung Quốc, đình chỉ
thổi phồng bất đồng, gây ra tranh chấp mới, xử lý và khắc phục tốt
hậu quả vụ bạo lực đánh đập, cướp bóc và thiêu đốt xảy ra tại
Việt Nam cách đây không lâu, đồng thời bảo đảm an toàn cho các cơ quan,
doanh nghiệp và nhân viên Trung Quốc tại Việt Nam."
Trong khi Phạm Bình Minh cho biết thái độ của VN :
"Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh cho biết, Việt Nam
sẵn sàng tuân thủ nhận thức chung quan trọng đạt được giữa Lãnh đạo
hai nước về xử lý thoả đáng các vấn đề nhạy cảm trong quan hệ hai
nước, tránh để cho các vấn đề này quấy nhiễu toàn cục của quan hệ
hai Đảng và hai nước."
Nếu vấn đề ngừng ở đây, rồi hết, thì không phải chỉ là
« nan giải » và « bế tắc ». Nan giải và bế tắc là khi ta
loay hoay tìm mãi mà không ra giải pháp cho một việc khó khăn nào đó. Ở đây mọi
việc như thể được « an bài » trong « cẩm nang » mà lãnh đạo
hai bên vạch ra từ các đời TBT trước.
Tức là phía VN đã « bó giáo qui hàng », nếu có làm gì
thì cũng không ngoài những gì đã được « lãnh đạo » qui định trước.
Vấn đề mà người dân « bức xúc » là :
Cái « đại cục » mà Dương Khiết Trì chỉ ra cho VN là
cái « cục » gì mà lại đặt trên quyền lợi của đất nước ?
« Nhận thức của lãnh đạo » là cái nhận thức nào mà xem
là quan trọng hơn trách nhiệm bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ ?
Họ Dương ăn nói ngược ngạo, ngậm máu phun người, cho rằng phía
VN đã cản trở đủ thứ sự « tác nghiệp » của giàn khoan 981. Lại còn
lên tiếng dạy dỗ công an VN cần phải « xử lý và khắc phục tốt »
các vụ biểu tình bạo động chống TQ trong tháng 5 vừa qua.
Việc này không khác ví von thằng hàng xóm hung hăng đem máy cày
vào cày nát miếng ruộng của mình, nó còn lên tiếng bảo mình ngồi yên, không
được động đậy khi nó cày. Thái độ « hợp lý » của mình là gì ? Là
« xếp ve », hứa sẽ « tuân thủ », để không « quấy nhiễu
toàn cục » (lại cái « cục » thối tha) của quan hệ hai đảng, hay
là mình la làng « bớ hàng xóm » ?.
Đáng lẽ việc TQ đặt giàn khoan 981 đã mở cho VN nhiều cơ hội
bằng vàng. Trong một bài viết gần đây tôi có cho rằng :
« Sẽ là quá sớm để nói về thành bại của Việt Nam tại Biển
Đông trước thách thức của TrungQuốc, khi nước này đặt giàn khoan khổng lồ 981
trên thềm lục địa của VN, cách đảo Lý Sơn trên trăm hải lý.
Trên quan điểm thuần túy chiến lược, có lẽ phía Trung Quốc đã
tính toán sai mà việc này có thể mở ra cho VN một cơ hội bằng vàng để giải
quyết nhiều khó khăn nội bộ. Trong quan hệ ngoại giao, sự do dự của VN về việc
lựa chọn đồng minh chiến lược -Trung Quốc hay Mỹ - sẽ sớm được quyết định. Hệ
quả điều này sẽ đi đôi với việc dân chủ hóa chế độ. Như thế Trung Quốc mất một
đồng minh tin cậy đồng thời tạo ra một quốc gia thù địch quan trọng. Trong khi
việc tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, đã
đông lạnh từ tháng giêng năm1974 cho đến nay, thì được hâm nóng lại. »
Không phải là « điều tốt » hay sao, tranh chấp chủ
quyền quần đảo Hoàng Sa đã « đông lạnh » từ năm 1974 đến nay lại được
« hâm nóng » lại ? Việc này tạo cho Việt Nam một cơ hội giải
quyết, hay ít nhất là « quốc tế hóa vấn đề tranh chấp ».
Trung Quốc từ trước đến nay một mực phủ nhận mọi hiện hữu về một
tranh chấp chủ quyền ở vùng lãnh thổ này. Bây giờ mình thấy TQ đang phân trần
vấn đề Hoàng Sa trước Liên Hiệp Quốc. TQ đưa những bằng chứng cho thấy từ lâu
VN đã nhìn nhận chủ quyền của TQ tại Hoàng Sa. Vùng biển giàn khoan 981 mặc dầu
nằm sâu trong vùng kinh tế độc quyền và thềm lục địa của VN nhưng nó hoàn toàn
thuộc TQ vì hiệu lực (theo điều 121 Luật Biển 1982) của các đảo Hoàng Sa.
Rõ ràng đây là một « cơ hội bằng vàng » để VN đặt lại
toàn bộ vấn đề tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa với Trung Quốc trước dư luận quốc
tế.
Bằng vàng, bởi vì phía TQ đã quên một điều quan trọng, là thời
điểm phát xuất các « bằng chứng » (VN) công nhận chủ quyền của TQ tại
HS, Việt Nam là một quốc gia bị phân chia, có tới hai miền (VNCH và VNDCCH) mà
không bên nào có tư cách pháp nhân « quốc gia » trước quốc tế công
pháp. Trong khi hiệp định Genève 1954 (khải huyền hai miền VN) mà TQ là một bên
bảo trợ, cam kết toàn vẹn lãnh thổ của một nước VN độc lập, có chủ quyền. Hoa
Kỳ, bên không ký hiệp định Genève 1954, cũng nhìn nhận nội dung hiệp định này
(ít nhất hai lần), qua các giác thư ngoại giao năm 1965 và qua Hiệp định Paris
1973. Trên tinh thần này thì các bằng chứng mà TQ đưa ra không có giá trị pháp
lý. Đơn giản vì nội dung của nó đi ngược lại những qui định của các kết ước
quốc tế. Phía VNCH là bên quản lý hai quần đảo HS và TS, là bên có « thẩm
quyền quốc gia » trên hai quần đảo. Phía VNDCCH vì không có thẩm quyền
quốc gia tại hai quần đảo HS và TS, do đó không thể ký nhận bất kỳ văn kiện nào
có nội dung liên quan đến hai vùng lãnh thổ này. Bất kỳ các văn kiện (hay dữ
kiện) nào, xuất phát trong thời kỳ này (1954-1975), mang nội dung xâm phạm việc
toàn vẹn lãnh thổ của VN, (đi ngược lại tinh thần các hiệp định quốc tế), thì
chúng đều không có giá trị.
Nhưng nếu VN xem đây là việc « gia đình »,(nói theo
kiểu Phùng Nguyên soái), cố gắng tập trung vào việc « thuơng lượng »
thông qua « đối thoại song phương », giải quyết theo lối « gia
đình », chắc chắn sẽ lâm vào bế tắc vì thái độ cứng rắn của Trung Quốc.
Giải quyết theo lối « gia đình » như đã thấy từ trước đến nay giữa
hai đảng Cộng Sản (VN và TQ), là con phải nhịn cha, là đứa nhỏ phải chịu thua
đứa lớn. VN luôn bị thiệt thòi. Lời « giáo huấn » của Dương
Khiết Trì đến lãnh đạo VN là quan hệ gì nếu không phải là cha đối với
con ?
Tuy vậy, ta có quyền lạc quan hơn khi đọc ý kiến sau đây của TT
Nguyễn Tấn Dũng :
"trong cuộc gặp ngày 18/6, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn
Dũng đã nói với ông Dương Khiết Trì rằng Bắc Kinh đã 'xâm phạm nghiêm trọng chủ
quyền' của Việt Nam khi đưa giàn khoan vào vùng biển như hiện nay."
Tuyên bố này cho thấy, ít nhất một vài lãnh đạo VN đã dám nhìn
thẳng vào sự thật, dám vượt lên cái bóng của « gia đình », đặt vấn đề
quyền lợi đất nước lên trên quyền lợi của đảng phái. Ở điểm này không ai có thể
phản đối TT Nguyễn Tấn Dũng được.
Vấn đề là TT NT Dũng có can đảm nắm lấy (và khai thác) cơ hội đó
không ?
Nếu có, thì tôi hoàn toàn ủng hộ TT Dũng.
Câu hỏi đặt ra là VN khai thác cơ hội này như thế nào ?
Từ lúc giàn khoan 981 của TQ đặt trong vùng biển của VN, nhiều
tiếng nói cất lên kêu gọi nhà nước VN « kiện » TQ. Dĩ nhiên đây là
một ý kiến đúng đắn.
Quan trọng là kiện về cái gì ? kiện ở đâu, kiện lúc
nào ? Kiện tụng là một việc phiêu lưu, có thể thắng, có thể thua. Vì thế
hồ sơ kiện của VN phải lập thế nào sao cho mọi phán quyết của tòa, trong tình
huống tệ nhất, cũng không làm cho VN bị thiệt hại về chủ quyền lãnh thổ.
Hiện nay nhà nước VN chưa công bố hồ sơ pháp lý của VN về Biển
Đông như thế nào nên không thể có ý kiến. Nếu dựa lên các giải pháp của các học
giả VN đã đề nghị thì tôi thấy có nhiều nguy hiểm.
Đề nghị thường thấy là nhắc trường hợp Phi kiện TQ và thúc
đẩy VN làm tương tự. Theo tôi, kiện như vậy là thất sách, sác xuất VN thắng
kiện là vô cùng nhỏ. Hoàn cảnh của VN hiện nay là cố gắng hâm nóng lại tranh
chấp chủ quyền Hoàng Sa mà từ bao lâu nay TQ một mực phủ nhận mọi hiện hữu tranh
chấp, chứ không phải là tranh tụng về hiệu lực các đảo ở Trường Sa.
Thật vậy, Phi kiện TQ ra Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) gồm
mười điều, nhưng nội dung là tập trung vào việc yêu cầu Tòa giải thích hiệu lực
của các cấu trúc địa lý trong vùng quần đảo Trường Sa. VN không có lợi ích gì
khi đặt tâm điểm vào Trường Sa.
Nếu VN kiện, xem lại danh sách bảo lưu của TQ năm 1996 ở LHQ, VN
sẽ chỉ có thể kiện TQ (ở Tòa trọng tài theo phụ lục VII của công ước về Luật
Biển 1982, hay một trọng tài khác…), về việc mâu thuẩn của hai bên do cách diễn
giải hiệu lực các đảo thuộc Hoàng Sa (theo điều 121 của luật Biển). Điển hình
là đảo Tri Tôn mà phía VN gọi là « cấu trục địa lý » lúc chìm lúc
nổi.
VN không thể bây giờ theo chân Phi để kiện TQ về về hiệu lực
« đường lười bò ». Vị trí giàn khoan 981 nằm trong vùng chồng lấn
giữa các đảo Hoàng Sa và thềm lục địa Việt Nam chứ không có liên quan gì
đến « đường lưỡi bò ». VN cũng không thể kiện TQ do việc tranh
chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa (do TQ bảo lưu không chấp nhận giải quyết
tranh chấp chủ quyền bằng trọng tài quốc tế).
Nếu VN xúc tiến việc kiện như ý kiến của các học giả VN, thì chỉ
có thể kiện :
- Yêu cầu Tòa tuyên bố các đảo
Hoàng Sa quá nhỏ, không được hưởng qui chế đảo (theo định nghĩa của điều 121.3
Luật Biển 1982), chúng chỉ có tối đa lãnh hải 12 hải lý mà thôi.
- Hoặc yêu cầu Tòa giải thích về
hiệu lực các đảo Hoàng Sa.
Kiện như vậy Việt Nam có thể bị Estoppel.
Theo tuyên bố của chính phủ CHXHCNVN ngày 12-5-1977, các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vùng (ZEE) 200 hải lý. Điều này cũng đúng trên
thực tế. Một số đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa hội đủ các yếu tố « đảo »
theo điều 121 (có người sinh sống, có nền kinh tế tự túc…) của Luật Biển 1982.
VN không thể yêu cầu Tòa tuyên bố ngược lại chủ trương của mình đã (và đang)
có. Do mâu thuẩn lập trường, nguy cơ VN bị Estoppel rất lớn.
Nếu VN yêu cầu Tòa giải thích hiệu lực các đảo Hoàng Sa. Hồ sơ
VN cũng có thể bị bác (Estoppel), vì hai bên VN và TQ, dầu không đồng ý với
nhau mọi điểm do tranh chấp về chủ quyền HS, nhưng đã có một điểm chung về qui
chế pháp lý của các đảo Hoàng Sa.
Các phương cách kiện (của các học giả VN) cho thấy đều thất
sách. Kiện theo lối đó thì VN chỉ thua ít đến thua hết.
Tôi có một số ý kiến về kiện tụng, cần nhắc lại sau đây.
Nếu VN muốn giải quyết tranh chấp theo lối « gia
đình », theo ý muốn của đảng, thì cũng phải phân chia theo nguyên tắc.
Nguyên tắc đó là nguyên tắc đã được xác định trong trong Hiệp định phân định
vịnh Bắc Bộ ngày 30-12-2000 : Lấy bộ luật Biển 1982 làm nền tảng, cùng với
các nguyên tắc « công bằng - équitabilité » và « tỉ lệ -
proportionnalité » của công pháp quốc tế để phân định vùng biển ngoài cửa
vịnh.
Nếu VN muốn đưa ra Tòa giải quyết, thì thời điểm này là một thời
điểm tốt. Ta thấy tổ chức Liên Hiệp Quốc, qua phát ngôn nhân, cho biết đã đồng
ý làm trung gian để hòa giải tranh chấp hai bên Việt Nam và Trung Quốc. VN cần
nhanh chóng nắm lấy cơ hội này, bằng cách :
Đệ đơn đề nghị Tòa Công lý Quốc tế (CIJ) tuyên bố một số
điều :
- Việc chiếm hữu một lãnh thổ bằng
phương pháp vũ lực là vi phạm các nguyên tắc cơ bản của LHQ.
- Việc chiếm hữu các đảo ở Trường
Sa (lập danh sách chi tiết các đảo) năm 1988 bằng vũ lực không đem lại cho Trung
Quốc danh nghĩa chủ quyền.
- Việc chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa
tháng giêng năm 1974 bằng vũ lực không đem lại cho Trung Quốc danh nghĩa chủ
quyền.
Ba yêu cầu Tòa tuyên bố hoàn toàn thuộc về quyền của quốc gia
Việt Nam, là thành viên các công ước và các nguyên tắc cơ bản của LHQ. Việc
giải thích nội dung các điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền của Tòa CIJ. Đặc biệt
các yêu cầu này không liên quan đến các bảo lưu của TQ về việc phân giải tranh
chấp chủ quyền bằng trọng tài quốc tế.
Mục đích việc yêu cầu Tòa tuyên bố, nếu thành công (điểm 3), sẽ
đưa quần đảo Hoàng Sa (không có tranh chấp, theo TQ) vào tình trạng « có tranh
chấp ».
Nếu VN thua, tức Tòa không tuyên bố (không có ý kiến), thì VN
cũng không có gì để mất. Trong vụ yêu cầu Tòa tuyên bố này không hề nói đến chủ
quyền các đảo (HS và TS) là của ai, mà chỉ nói đến việc nhìn nhận hay không
nhìn nhận, danh nghĩa chủ quyền nếu việc chiếm hữu thực hiện bằng vũ lực.
Còn nếu thắng, VN được nhiều thứ.
Theo tập quán quốc tế, « đất thống trị biển ». Nếu các đảo Hoàng
Sa là lãnh thổ « có tranh chấp » thì vùng biển phát sinh từ nó cũng có tranh
chấp.
Vị trí giàn khoan 981 có thể được xem nằm trong vùng biển « có
tranh chấp » mà tranh chấp này phát sinh từ chủ quyền các đảo HS chứ
không phải phát sinh do chồng lấn hải phận (giữa bờ biển VN với các đảo HS,
theo như lập luận của TQ hiện nay).
Theo thông lệ quốc tế, nếu lãnh thổ có tranh chấp, việc giải
quyết thường là chia hai (hay cộng đồng khai thác), mỗi bên được một phần của
lãnh thổ đó. Tức là, quần đảo HS có thể chia hai, thí dụ hai nhóm Nguyệt Thiềm
(Croissant) và An Vĩnh (Amphitrite). VN có thể nhận nhóm Nguyệt Thiềm (phía
tây) và giao cho TQ nhóm An Vĩnh (phía đông). Hải phận sinh ra do quần đảo này
do đó cũng sẽ chia hai.
Đó là cái lợi thứ nhất.
Cái lợi thứ hai ở Trường Sa. Nếu tòa tuyên bố (chắc chắn 90%),
thì TQ không có chủ quyền tại các đảo của VN tại TS. TQ sẽ không thể tuyên bố
vùng « nhận diện phòng không » trong khu vực này được. Điều này chắc chắn Hoa
Kỳ, Nhật cũng như các nước trong vùng nồng nhiệt ủng hộ.
Cái lợi thứ ba, là VN dành được tính « chính đáng ». Nhiều người
cho rằng các phán quyết của Tòa cũng không làm gì, nếu TQ không tuân thủ.
Theo tôi, phán quyết của Tòa có tầm quan trọng rất lớn. Trong vụ
giàn khoan 981, nếu TQ không rút giàn khoan, VN có thể dùng các biện pháp để
bảo vệ quyền lợi của mình. Việc « bảo vệ » ở đây mang tính tự vệ chính đáng,
được hiến chương LHQ công nhận.
Cái lợi khác, về chi phí, hồ sơ này đơn giản, viện kiện cáo ít
tốn kém, đáng lẽ không cần phải đưa ra một tổ hợp luật sư nào. Tuy nhiên, để
nắm chắc phần thắng, đơn không bị bác do lỗi thủ tục, VN nên thông qua một tổ
hợp luật sư chuyên môn ở HK.
Do vậy, trái banh kiện TQ hay không đang nằm trong chân Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nếu ông quyết định nắm bắt cơ hội bằng vàng này để giải
quyết tranh chấp Hoàng Sa, những thất bại của ông (về kinh tế xã hội...) trong
thời gian qua có thể sẽ được mọi người xí xóa. Mọi người sẽ biết đến ông như
một lãnh đạo hiếm hoi xuất thân từ lò cộng sản có quyết tâm vì quyền lợi của
đất nước và dân tộc.
Theo https://www.facebook.com/nhantuan.truong
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét