Thứ Sáu, 15 tháng 12, 2017

NHẬN THỨC RÕ VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI và CHỦ NGHĨA XÃ HỘI – DÂN CHỦ


Đọc bài “Các nước Bắc Âu có theo chủ nghĩa xã hội không?” của tác giả Phan Lê Vũ đăng trên trang Bauxite.VN ngày 11/12/2017, tôi hiểu rõ thêm về Chủ nghĩa xã hội (CNXH) tức (CNCS) và Chủ nghĩa xã hội – Dân chủ (CNXH- DC). Bài viết có tính học thuật, dài hơn 20 trang. Tôi thấy hay hay nên xin phép tác giả tóm tắt lại để chia sẻ với bà con nào còn lơ mơ như tôi, nhưng ít thì giờ để đọc. Những câu trong “...” là nguyên văn của tác giả.

“Tháng 8 năm 2017, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Việt Nam đã phát hành cuốn “Phê phán các quan điểm sai trái xuyên tạc cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa về chính trị trong Đảng Cộng sản Việt Nam”. Trong sách có viết: “Sau khi mô hình CNXH hiện thực của Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, nhiều nước đang tìm con đường và cách thức để xây dựng CNXH theo một mô hình mới. Ở Châu Âu, nhất là ở Bắc Âu, đang lấy CNXH làm mục đích để xây dựng, phát triển đất nước họ”.

Tôi cho rằng đây là kiểu thấy người sang bắc quàng làm họ và lập lờ đánh lận con đen. CNXH – DC Bắc Âu là chế độ đa đảng cạnh tranh, tam quyền phân lập, xã hội dân sự. Những thứ mà ai có nguyện vọng theo nó là bị khai trừ khỏi Đảng CSVN VN theo Qui định số 102-QĐ/TW mà ông Trần Quốc Vượng mới công bố hôm 9/12/2017.

Hiện nay các nước có danh xưng “xã hội chủ nghĩa” chia làm ba loại.

1. Các nước có danh xưng XHCN nhưng không theo hệ tư tưởng Marx – Lenin (ML), không theo CNCS. Nhưng nước này chỉ muốn chứng tỏ “không theo tư bản” và phát triển theo con đường riêng, trước đây có đến hơn 30 nước có danh xưng XHCN theo kiểu này. Nay còn một số nước, như: XHCN Bolivia, Nicaragua, Venezuela... ở châu Mỹ; SriLanka, Bangladet... ở châu Á; Lybia, Tanzania ... ở châu Phi. Những nước này họ gọi những nước XHCN theo hệ tư tưởng ML là nước “Cộng sản”, còn họ là “XHCN”. Những nước này cũng đa đảng, tổ chức nhà nước như các nước tư bản, đường lối lúc “tả”, lúc “hữu”...

2. Các nước XHCN (CSCN).
Đây là những nước lấy CN ML làm hệ tư tưởng, Đảng CS độc quyền lãnh đạo, “đánh đổ” giai cấp địa chủ, tư sản; quốc hữu hóa tư liệu sản xuất, kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nhà nước chỉ huy... Tổ chức nhà nước có tam quyền: Lập pháp, hành pháp, tư pháp, nhưng đều do Đảng CS phân công, chỉ huy; tất cả các hội, đoàn đều trong hệ thống chính trị do Đảng CS quản lý, không tự do báo chí, không có xã hội dân sự... Các nước trong hệ thống XHCN theo mô hình này, mà Liên xô là mẫu, đã sụp đổ vào đầu những năm 1990. Nay chỉ còn lại 5 nước là Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Lào, Triều Tiên (Nhưng Triều Tiên có đặc thù, không theo hệ tư tưởng ML mà theo Thuyết “Chủ thể” của Kim Nhật Thành).
Ai muốn tìm hiểu sâu hơn về bản chất của mô hình CNXH này thì đọc thêm: “Khi còn sống, Marx chỉ nói đến chủ nghĩa cộng sản, ít khi nói đến chủ nghĩa xã hội. Tại Quốc tế I (1864-1876), Marx quảng bá cuốn Tư bản tập I và truyền bá Chủ nghĩa Marx trong phong trào công nhân. Tuyên ngôn của Quốc tế I khẳng định chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được giai cấp công nhân. Tại Quốc tế II (1889-1901) Engels khẳng định chủ nghĩa cộng sản là cơ sở tư tưởng của phong trào công nhân và mục đích cuối cùng của giai cấp công nhân là giành chính quyền từ trong tay giai cấp tư sản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Khi tổng kết kinh nghiệm thất bại của cách mạng Pháp (1848-1850) Marx viết: “Thời cơ của cách mạng vô sản hoàn toàn được quyết định bởi những nhân tố xã hội mới được ươm mầm trong lòng xã hội tư bản, nghĩa là khi sức sản xuất và nền văn minh ở xã hội tư bản đã phát triển rất cao và nền chính trị xã hội đã dân chủ hóa”...
“Khi những người Bolshevick Nga do Lenin lãnh đạo giành được chính quyền vào năm 1917 thì ở nước Nga chưa có những nhân tố như Marx đã chỉ dẫn. Lenin là người đầu tiên dùng và giải thích thuật ngữ “chủ nghĩa xã hội”, coi chủ nghĩa xã hội là giai đoạn giữa của quá trình từ chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa cộng sản, hoặc gọi đó là giai đoạn trước của chủ nghĩa cộng sản, với vai trò tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa cộng sản. Ở giai đoạn chủ nghĩa xã hội việc sản xuất và phân phối của cải xã hội tuân theo nguyên tắc “Làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Ở giai đoạn cuối là chủ nghĩa cộng sản, năng suất lao động đã rất cao, của cải hết sức dồi dào thì sản xuất và phân phối tuân theo nguyên tắc “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”... CHXHCN Việt Nam theo chủ thuyết này, mà có lần TBT Nguyễn Phú Trọng nói: Không biết đến cuối thế kỷ này, ta đã có CNXH hoàn thiện chưa? Tức là còn lâu nữa mới đến CNCS, theo lý thuyết của CN ML.

3. Những nước XHCN - DC
“Ở nước Mỹ, trung tâm của thế giới tư bản, Bernie Sanders, Thượng nghị sĩ thuộc Đảng Dân chủ, một nhân vật ra tranh cử Tổng thống năm 2016, đã nói trong một cuộc tranh luận trên truyền hình Mỹ: “Chúng ta nên nhìn vào những quốc gia như Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy và học ở họ những điều họ làm có lợi cho người lao động”, còn Hillary Clinton thì nói với Sanders: “Đúng, chúng ta phải cứu chủ nghĩa tư bản khỏi sự thất bại của chính nó. Các nước Bắc Âu thật tuyệt vời”.
Vì sao các nước Bắc Âu lại thành công, các nước khác lại thất bại? Người Bắc Âu đã trả lời: “Vì các nước Bắc Âu không phải là các nước theo chủ nghĩa xã hội!” (CNCS)
“Năm 1988, người phát ngôn của Đảng Xã hội-Dân chủ Thụy Điển đã giải thích cho Giáo sư Ngô Giang, Viện trưởng Viện chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Trung Quốc rằng Thụy Điển và Bắc Âu là các nước theo chủ nghĩa xã hội-dân chủ chứ không theo chủ nghĩa xã hội”.

Vậy Chủ nghĩa xã hội-dân chủ là gì?
“72 năm sau ngày thành lập Quốc tế II vào năm 1889, ngày 30/6/1951, Quốc tế xã hội chủ nghĩa (Socialist International, viết tắt là SI) của các Đảng Xã hội-Dân chủ, các Đảng Xã hội chủ nghĩa, các công đảng đang hoạt động ở các nước tư bản đã được thành lập. Quốc tế xã hội chủ nghĩa là hiện thân của trào lưu xã hội-dân chủ hiện đại. Tại đại hội thành lập, Quốc tế xã hội chủ nghĩa đã ra tuyên bố có tính chất cương lĩnh với nhan đề “Về mục tiêu và nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội-dân chủ”, trong đó có định nghĩa thuật ngữ “chủ nghĩa xã hội-dân chủ: Quốc tế xã hội chủ nghĩa đề cao vấn đề dân chủ trong mọi mặt đời sống xã hội, trước hết là dân chủ về xã hội. Các đảng tham gia Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đồng lòng chủ trương thực hiện các biện pháp dân chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống để CẢI CÁCH chủ nghĩa tư bản chứ không chủ trương xóa bỏ chủ nghĩa tư bản như Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã được Quốc tế III (tức Quốc tế cộng sản) thông qua. Năm 1986 các đảng thuộc trào lưu xã hội-dân chủ đã có hơn 16 triệu đảng viên và đã thu hút được khoảng 100 triệu cử tri và đạt được số phiếu bầu đáng kể trong các cuộc bầu cử vào các Nghị viện. Quốc tế XHCN đã thành lập một tổ chức mới là “Liên minh các đảng xã hội-dân chủ thuộc cộng đồng Châu Âu”, đối trọng với các đảng cộng sản trong khối các nước theo CNXH ở Đông Âu và Liên Xô. Đại hội lần thứ 13 của Quốc tế XHCN đã kiện toàn Ban lãnh đạo với tinh thần đổi mới, Chủ tịch là ông Bơ-ran, 14 phó chủ tịch, trong đó 7 phó chủ tịch đại diện cho các đảng ở Châu Âu, với nhiều chính khách có tên tuổi, có đầu óc thực tế như Mít-tơ-răng, Ôlốp Pan-mơ, B. Craixki...”
“Quốc tế XHCN đã có 2 cương lĩnh: Cương lĩnh 1951 ra đời trong thời kỳ chiến tranh lạnh, chủ trương đa nguyên thế giới quan, đoạn tuyệt với thế giới quan của chủ nghĩa Marx, công khai thừa nhận và đề cao Chế độ dân chủ đại nghị mà Lenin phê phán là của giai cấp tư sản, từ bỏ yêu sách giai cấp vô sản giành chính quyền trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Cương lĩnh mới năm 1989 cùng với bản Tuyên ngôn 1989 về những nguyên tắc hoạt động của Quốc tế XHCN đã chỉ đạo hoạt động của các đảng kể từ đó đến hết thế kỷ 20 và chuẩn bị bước sang thế kỷ 21. Tuyên ngôn 1989 của Quốc tế XHCN có nhiều thay đổi đáng kể về quan niệm tư duy và định hướng hoạt động, chẳng hạn nhận định về tính chất phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước trên cùng hành tinh, những tác động to lớn của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ, những khả năng mới đem lại cho con người và những thảm họa tiềm ẩn, mâu thuẫn giữa các nước giàu với những nước nghèo, giữa những nước phát triển và những nước đang phát triển và đặc biệt nhấn mạnh đến các giá trị chung của loài người như Hòa bình, Tự do, Dân chủ, Bình đẳng, Công bằng, Nhân đạo, Đoàn kết”.

“Nhiều đảng xã hội-dân chủ cầm quyền ở Thụy Điển, Áo, CHLB Đức đã có những chính sách hạn chế mặt tiêu cực của tư bản độc quyền, đòi chủ tư bản nhân đạo hóa trong việc tuyển mộ và sử dụng lao động, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế thị trường và tăng thêm các chính sách xã hội. Liên minh 13 đảng xã hội-dân chủ trong Cộng đồng Châu Âu, với 4 triệu đảng viên đang nỗ lực hoạt động theo hướng này”.
“Năm 1976 tạp chí Time của Mỹ viết xã luận về Thụy Điển, trong đó viết: “Người dân ở đó được hưởng tiêu chuẩn xếp vào hàng đầu thế giới. Không vấn đề nào, như kém sức khỏe, thất nghiệp, tuổi già gây ra gánh nặng tài chính với họ. Hệ thống phúc lợi trọn đời của Thụy Điển là có một không hai đối với bất kỳ xã hội tự do nào”...

“Các học giả ở Bắc Âu nói họ không có phép mầu nào. Họ cũng không phá vỡ các quy luật của kinh tế học. Theo họ xã hội chỉ an bình khi có sự công bằng trong phân phối thu nhập nhưng xã hội không thể tiêu xài vượt quá khả năng tạo ra của cải vật chất cho mình. Nền kinh tế có tăng trưởng thì mới có của cải để phân phối, để có phúc lợi xã hội. Các nước Bắc Âu kiên trì đi con đường xã hội-dân chủ, đã từng có những thử nghiệm, rút ra những bài học và không ngừng cải cách để có thành công như ngày nay”...
“Năm 2015, Thủ tướng Đan Mạch Lors Lokke Rasmussen khẳng định nguyên nhân chính để Đan Mach thành công là Đan Mạch không theo con đường chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế của Đan Mạch là nền kinh tế thị trường chứ không phải là nền kinh tế chỉ huy theo kế hoạch như ở Liên Xô. Học giả Thụy Điển Nima Sanandaji giải thích: “Sự giầu có của các xã hội Bắc Âu để từ đó xây dựng các chính sách nhà nước phúc lợi không phải là sản phẩm của chủ nghĩa xã hội. Sự thịnh vượng của Thụy Điển được tạo ra trong thời gian thực hiện các chính sách tôn trọng thị trường tự do, đánh thuế ở mức thấp hoặc trung bình và chính phủ ít can thiệp vào nền kinh tế”... “Cuối năm 1960, các chính phủ ở Bắc Âu chuyển sang cánh tả cầm quyền. Đến năm 1970 tăng thuế, phúc lợi xã hội hào phóng thì trái lại tinh thần khởi nghiệp quốc gia giảm sút, có rất ít doanh nghiệp xuất xắc. Năm 1975, GDP bình quân đầu người của Thụy Điển đứng thứ tư trên thế giới nhưng đến năm 1993 thì tụt xuống hạng thứ 14. Đó là cuộc thử nghiệm chủ nghĩa xã hội thất bại ở Thụy Điển. Chỉ sau khi sửa chữa được sai lầm này, kinh tế Thụy Điển và Bắc Âu mới ngóc đầu lên được”.

“Đan Mạch cũng rút ra được bài học như Thụy Điển, dẫn đến tình trạng lạm dụng phúc lợi xã hội, đạo đức làm việc giảm sút và trong cuộc bầu cử gần đây, chính phủ cánh tả ở Đan Mạch đã bị thay thế bởi một chính phủ trung hữu” ...

Chế độ phúc lợi quá mức cũng không tốt. “Ở Đan Mạch đã xảy ra một chuyện lạ, tưởng như bịa đặt nhưng lại có thật. Sinh viên đại học và cao đẳng đã được miễn học phí lại còn được chính phủ trợ cấp sinh hoạt mỗi tháng 1.000 USD (một ngàn đô la). Kết quả là rất nhiều sinh viên đã kéo dài 6 năm, thậm chí 6 năm rưỡi để hoàn thành chương trình 5 năm. Đi đôi với việc tăng mức thuế là năng suất lao động giảm, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, đã tác động trở lại, làm thiếu hụt nguồn thu để thực hiện chính sách phúc lợi xã hội, tạo ra một vòng luẩn quẩn”.
“Các nước Bắc Âu đã nhận ra được sai lầm này, dũng cảm cải cách để tồn tại và đạt được thành công như ngày nay. Hiện nay chính phủ Đan Mach không quy định mức lương tối thiểu mà để công đoàn và chủ doanh nghiệp thương lượng và thỏa thuận, có sự giám sát của chính phủ”.

“Nguyên nhân đưa đến thành công của Thụy Điển, Đan Mạch và các nước Bắc Âu khác đã được các học giả giải thích ở phần trên, ngoài ra thành công đó còn nhờ một nguyên nhân đặc biệt hết sức quan trọng là giá trị văn hóa của người Bắc Âu. Đó là một mối liên kết cộng đồng cố kết lâu đời, tinh thần trách nhiệm cao, trọng chữ Tín và lòng trung thực, kết hợp với tính công khai minh bạch của chính phủ, sự giám sát của dư luận xã hội và các đảng đối lập đối với đảng cầm quyền, pháp luật nghiêm minh và lòng tin của người dân vào pháp luật. Văn hóa của người Bắc Âu còn thể hiện ở lối sống của họ. Họ thường nói đến “chất lượng cuộc sống”. Người Thụy Điển nói với nhau: “Bạn có thể để dành tiền nhưng bạn không thể để dành thời gian. Chất lượng cuộc sống của cuộc đời bạn sẽ quyết định ở cách bạn dùng thời gian của bạn”. Nếu phải chọn một trong hai bức tranh về lối sống là “cuộc sống có đầy đủ vợ chồng, con cái, sân vườn” hoặc “cuộc sống có đầy đủ nhà cao cửa rộng, tiền bạc rủng rỉnh và xe hơi sang trọng” thì đa số sẽ chọn bức tranh thứ nhất. Họ không muốn cuộc sống phải luôn luôn vội vã tất bật kiếm tiền mà ưa cuộc sống đơn giản, tự nhiên, an bình và hạnh phúc”.

“Ngày 17/11/2017 vừa rồi, tại thành phố Goteborg, Hội nghị thượng đỉnh của Liên hiệp Châu Âu về mô hình Thụy Điển đã khai mạc, với sự tham gia của các nguyên thủ, những người đứng đầu chính phủ các nước thành viên của Liên Âu cùng với các đối tác xã hội”... Họ cùng tham khảo, học hỏi mô hình XHCN- DC của Thụy Điển nói riêng và các nước Bắc Âu nói chung.

Như vậy, lập lờ nói mô hình XHCN – DC Bắc Âu cũng giống mô hình CNXH của VN, khác nào so phấn với vôi!
12/12/2017

Mạc Văn Trang

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét