Thứ Sáu, 3 tháng 7, 2020

Thành ngữ mới: Bơ thừa sữa cặn


Đưa thêm bài này nữa cho đủ cặp "Phồn vinh giả tạo - Bơ thừa sữa cặn" đúng quy trình.
Thành ngữ mới: Bơ thừa sữa cặn
Gọi là thành ngữ mới bởi nó được dùng khá nhiều và khá lâu, rất phổ biến, trong một thời gian dài. Tất nhiên tác giả của nó là những người cộng sản ở miền Bắc. Ngay cả trong sách báo những nước khối xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung Quốc, tôi cũng chưa được đọc mấy chữ ấy bao giờ.
Nhớ hồi những năm 60 - 70 ở miền Bắc, khoai còn chả đủ ăn, lấy đâu ra bơ sữa. Tôi sinh năm 1955, một năm sau khi miền Bắc được giải phóng khỏi người Pháp, thú thực mãi đến hơn 20 năm sau mới biết mặt mũi miếng bơ. Còn sữa, cũng chỉ nghe nói thì nhiều chứ chả mấy khi được uống. Với nông dân đặc sệt như tôi, bơ sữa là cái gì đó rất cao sang, mà cũng chả mơ được ăn uống nó bởi vì hiểu phận mình chỉ có khoai sắn làm bạn. Đôi lần bu tôi cười bảo, nhà mình thương nhất ông Cào (tức tôi), đẻ đúng năm đói kém, chả có sữa siếc gì. Lại còn kể anh trai tôi lúc bé tha hồ uống sữa hộp Con chim bởi hồi Pháp chưa rút khỏi Hải Phòng, nhà tôi có tủ hàng tạp hóa, sữa và bánh kẹo ê hề. Nghe kể, hận mình sinh sau đẻ muộn, không gặp thời, hì hì. Năm 1975, ông Tế anh họ tôi là Phó chủ nhiệm HTX nông nghiệp được phân phối mấy hộp sữa đặc Moloko của Liên Xô, biếu thày tôi một hộp. Thày quý lắm, đem cất vào tủ, để khi nào ai trong nhà ốm đau thì mới lấy ra bồi dưỡng, chẳng ngờ để lâu quá hết hạn dùng. Tới hôm tình cờ thấy nó, khui ra, bên trong đặc như đất sét vàng. Tôi tiếc, liều ăn hết, may mà không bị tào tháo đuổi.
Nhưng đài báo nhà nước thì cho dân “ăn” bơ sữa thường xuyên, nhất là khi lên tiếng tố cáo chính quyền “ngụy” Sài Gòn. Họ gọi đó là bọn tay sai đế quốc Mỹ, cam phận “bơ thừa sữa cặn” để áp bức bóc lột đồng bào miền Nam, gây chiến tranh chia cắt đất nước. Theo cán bộ hồi đó giải thích, cũng như đọc trên báo Nhân Dân, ăn “bơ thừa sữa cặn” là ăn thứ người ta đổ đi, ăn hèn ăn nhục, bám đít đứa khác, chả khác gì con chó ăn sít. Thà đói khổ mà làm người cách mạng còn hơn sống kiếp “bơ thừa sữa cặn”. Nghe giải thích vậy, tự dưng thấy không thèm bơ sữa nữa. Đói cũng vinh quang.
Nhưng nếu chỉ cho kẻ thù ăn bơ thừa sữa cặn nhằm khinh bỉ nó thì cũng dễ hiểu, đằng này mấy bác lý luận cách mạng nhà ta gán cho dân chúng miền Nam luôn. Thời đó ai cũng biết đời sống của số đông người dân miền Nam cao hơn hẳn ở miền Bắc, lương thực dư thừa, hàng hóa dồi dào, nông thôn cũng như thành thị đại đa số dân chúng không bị đẩy vào cảnh đói kém, thiếu thốn, khốn cùng. Gia đình vợ tôi ở nông thôn, trên một cù lao sông Tiền, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, dù giao thông cách trở, đi lại khó khăn, vùng xôi đỗ (ngày thì chính quyền cộng hòa, đêm thì cộng sản), chiến tranh ác liệt như thế, nhưng ông anh vợ tôi bảo những năm tháng ấy chưa hề bị đói bao giờ. Tôm cá thịt thà chả bao giờ thiếu. Hàng hóa nhập khẩu ê hề, cứ thế giới có thứ gì thì miền Nam có thứ ấy.
Tôi lại nhớ những đồng nghiệp vốn là giáo viên cũ từng đi dạy trước năm 1975, các anh kể từ giữa thập niên 1960 gia đình bình dân đã mua sắm được tivi, tủ lạnh, xe máy; lương giáo viên chỉ tiết kiệm, dè sẻn ăn tiêu trong 2 tháng là mua được chiếc xe máy Honda Dame 50 mới cứng. Hầu như thầy dạy trung học nào cũng sắm xe Vespa. Các giáo sư đại học thì diện xe hơi. Xe taxi đầy phố… Nghe anh tôi và các đồng nghiệp kể vậy, tôi sực nhớ cùng thời ấy “ngoài mình” chưa có khái niệm tivi, tủ lạnh. Cơm còn chả đủ bỏ vào mồm, lấy đâu ra thứ đồ sinh hoạt ăn uống mắc mỏ thế. Lại sực nhớ những năm 1977-1978, trong các lớp học chính trị, cán bộ tuyên giáo lý luận đầy mình, hùng hồn chỉ ra cho những người như tôi và đám giáo viên thu dung, cơ hữu kia thấy rằng đó chỉ là thứ “phồn vinh giả tạo”, là dạng “bơ thừa sữa cặn” thôi. Đừng tiếc làm gì. Có độc lập tự do là có tất cả, chả mấy nữa sẽ như sống trong thiên đường nơi hạ giới. Bây giờ còn tạm làm theo năng lực, hưởng theo lao động, chứ mai mốt sẽ làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Bơ sữa có vứt đi cũng chả ai thèm nhặt. Trong tư thế của bên thắng cuộc, họ lặp lại y nguyên những gì bộ máy tuyên truyền cách mạng đã suốt bao năm nhét vào trí não tôi. Chỉ có điều, họ lừa được những người miền Nam ở lại chứ không lừa được chính chúng tôi, đám từ miền Bắc vào, bởi từng nhìn tận mắt sự khác nhau của hai cuộc sống, hai chế độ. Tôi chả dám kể sai, những thầy cô giáo nào từng dự lớp bồi dưỡng chính trị (nhiều đợt) cho giáo viên các trường đại học được tổ chức tại Trường đại học Kinh tế (góc Nguyễn Đình Chiểu – Phạm Ngọc Thạch) trong 2 năm 1977, 1978 chắc còn nhớ rõ.
Với sữa, tôi có chút kỷ niệm. Năm 1979 nghỉ phép ra Bắc. Hết phép, trước khi lên tàu ga Hàng Cỏ trở vào Nam, anh Bùi Trọng Cường đồng môn, công tác ở Nhà xuất bản Văn hóa dắt ra chợ giời mua giùm 3 chục hộp sữa, tinh dững sữa Thống Nhất do nhà máy ở miền Nam sản xuất, mậu dịch thương nghiệp đem ra miền Bắc bán tiêu chuẩn phân phối cho cán bộ, cán bộ bán ra chợ giời, tôi lại làm nhiệm vụ “lưu thông tuần hoàn” đưa nó về chốn cũ. Mua 2,2 đồng/hộp, vào Sài Gòn sẽ bán được 2,7 đồng, mỗi hộp lời 5 hào. Đến ga xe lửa Bình Triệu (hồi ấy chưa chuyển về Hòa Hưng), thuế quan phát hiện được mặc dù tôi giấu rất kỹ. Họ định tịch thu bởi xem như hàng lậu, hàng do nhà nước quản lý mà không giấy tờ hợp pháp. Tôi lấy cái giấy nghỉ phép của giáo viên ra năn nỉ, cuối cùng phải cúng cho hai ông mỗi ông 1 hộp thì họ tha. Lúc ấy gần 10 giờ đêm, kêu xích lô chở về ký túc xá Nguyễn Chí Thanh ở Q.5, tiền xe hết 5 đồng, gã xích lô bảo để cái ba lô lên trên ở phía sau cho cân xe. Dọc đường nó moi móc thế nào mình không biết, về nhà giở ra thấy mất 4 hộp, hèn chi khi trả tiền xe, nó chả thèm đếm, bảo khuya rồi, phóng đi như bay. Vị chi mất 6 hộp, toi 13 đồng 2 hào, bán xong hòa vốn. Suốt hành trình Bắc - Nam chịu căng thẳng từng phút, lúc nào mắt cũng lơ láo ngó trước ngó sau, dấm da dấm dúi, chỉ sợ bị phát hiện, tịch thu. Tính ra thì lỗ to.
Nguyễn Thông
Chú thích ảnh: Mua vé xe khách tuyến Hà Nội - Hải Phòng, năm 1967. Ảnh của nhà báo Lee Lockwood.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét