NSGV: Chúng ta sẵn sàng gạt qua quá khứ, hướng tới tương lai nhưng những hành động gây hấn liên tục hiện nay của Trung Quốc trên Biển Đông buộc chúng ta phải nhắc nhở thế hệ người VN hiện nay nhớ đến những tội ác man rợ “trời không dung, đất không tha” của lính Trung Quốc đối với đồng bào ta ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc vào tháng Hai năm 1979.
*****
“Bề mặt nước giếng hơn 2m, sâu ngập chừng ba đầu người. Thành giếng cao 3 gang tay, đắp bằng đất đồi. Bên cạnh là ngôi nhà tranh 3 gian nay trơ trọi chỉ còn lại đống tro tàn. Bao quanh ngôi nhà và giếng nước là dòng suối Bản Thín.
Vào ngày 9.3.1979…lính
pháo Trung Quốc, đầu đội mũ xanh đã giết hại 43 đồng bào ta hầu hết là người
Tày, Nùng, Hoa, Mán. Hơn 10 người chúng ném xuống giếng, còn hơn 30 người khác
chúng chặt ra nhiều khúc rải theo ven hai bờ suối nước”.
Đây là những dòng chữ đã
xuất hiện trên báo vào tháng 3 năm 1979. Trong số 43 nạn nhân bị thảm sát năm ấy,
có 20 em bé và 21 phụ nữ. 7 người đang chửa từ 3 đến 7 tháng. Tất cả bị giết
bằng lưỡi lê và rìu bổ củi.
35 năm sau, chúng tôi
leo tường, nhảy suối, chui vườn, vạch lá tìm lại tấm bia thảm sát năm xưa. 35
năm vắng hoe hương khói. Chiếc giếng cạn giờ đã bị cây lá và thời gian lấp đi.
Bà Hậu, một người dân
Tổng Chúc xưa từng cắp con chạy loạn bảo rằng: Bà không thể quên những ngày
tháng 2 năm ấy. Bởi nói gì thì nói “Tội ác là tội ác. Và tội ác không thể được
lấp liếm bằng bất cứ lý do gì”.
Theo Facebooker Đào Tuấn.
BÀI ĐỌC THÊM:
Biên Giới Tháng Hai (2009-1979)
16 Tháng 2 2011 lúc 9:21
Huy
Đức
Tháng
Hai, những cây đào cổ thụ trước cổng đồn biên phòng Lũng Cú, Hà Giang, vẫn chưa
có đủ hơi ấm để đâm hoa; những khúc quanh trên đèo Tài Hồ Sìn, Cao Bằng, vẫn mịt
mù trong sương núi. Sáng 7-2 nắng lạnh, vợ chồng ông Nguyễn Văn Quế, 82 tuổi,
nhà ở khối Trần Quang Khải 1, thị xã Lạng Sơn, ngồi co ro kể lại cái chết 30
năm trước của con trai mình, anh Nguyễn Văn Đài. Năm ấy, Đài 22 tuổi. Ông Quế
nói: “Để ghi nhớ ngày ấy, chúng tôi lấy Dương lịch, 17-2, làm đám giỗ cho con”.
Năm 1979, vào lúc 5giờ 25 phút sáng ngày 17-2, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến
biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ Phong Thổ, Lai Châu, tới địa đầu Móng Cái.
“Những
đôi mắt”
Hôm ấy, ông Quế không có nhà, vợ ông, bà Dự, bị dựng
dậy khi bên ngoài trời hãy còn rất tối. Bà nghe tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng
Đăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng Sơn. Bà Dự đánh thức các con dậy, rồi 4 mẹ con
dắt díu nhau chạy về xuôi. Tới ki-lô-mét số 10, đã quá trưa, bà rụng rời khi
hay tin, anh Đài đã bị quân Trung Quốc giết chết. Anh Đài là công nhân đường sắt,
thời điểm ấy, các anh đương nhiên trở thành tự vệ bảo vệ đoạn đường sắt ở Hữu
Nghị Quan. Anh em công nhân trong đội của Đài bị giết gần hết ngay từ sáng sớm.
Đài thuộc trong số 3 người kịp chạy về phía sau, nhưng tới địa bàn xã Thanh Hòa
thì lại gặp Trung Quốc, thêm 2 người bị giết. Người sống sót duy nhất đã báo
tin cho bà Dự, mẹ Đài.
Cùng thời gian ấy, ở bên núi Trà Lĩnh, Cao Bằng, chị
Vương Thị Mai Hoa, một giáo viên cấp II, người Tày, mới ra trường, cũng bị giật
dậy lúc nửa đêm rồi theo bà con chạy vào hang Phịa Khóa. Hàng trăm dân làng trú
trong hang khi pháo Trung Quốc gầm rú ở bên ngoài, rồi lại gồng gánh theo nhau
vào phía Lũng Pùa, chạy giặc. Chị Hoa không bao giờ có thể quên “từng đôi mắt”
của dòng người gồng gánh ấy. Giờ đây, ngồi trong một cửa hàng bán băng đĩa trên
phố Kim Đồng, thị xã Cao Bằng, chị Hoa nhớ lại: “Năm ấy, tôi 20 tuổi. Tôi nghĩ,
tại sao mình lại chạy!”. Chị quay lại, sau khi thay quần áo giáo viên bằng bộ đồ
chàm vì được những người chạy sau cho biết, rất nhiều người dân ăn mặc như cán
bộ đã bị quân Trung Quốc giết chết. Từ trên đồi, chị Hoa thấy quân Trung Quốc gọi
nhau ý ới và tiến vào từng đoàn.
“Cuộc
Chiến 16 Ngày”
Ngày 15-2-1979, Đại tá Hà Tám, năm ấy là trung đoàn
trưởng trung đoàn 12, thuộc lực lượng Biên phòng, trấn ở Lạng Sơn, được triệu tập.
Cấp trên của ông nhận định: “Ngày 22 tháng 2, địch sẽ đánh ở cấp sư đoàn”. Ngay
trong ngày 15, ông ra lệnh cấm trại, “Cấp chiến thuật phải sẵn sàng từ bây giờ”,
ông nói với cấp dưới. Tuy nhiên, ông vẫn chưa nghĩ là địch sẽ tấn công ngay.
Đêm 16-2, chấp hành ý kiến của Tỉnh, ông sang trại an dưỡng bên cạnh nằm dưỡng
sức một đêm bởi vì ông bị mất ngủ vì căng thẳng sau nhiều tháng trời chuẩn bị.
Đêm ấy, Trung Quốc đánh.
Ở Cao Bằng, sáng 16 tháng 2, tất cả các đồn trưởng
Biên phòng đều được triệu tập về thị xã Cao Bằng nhận lệnh, sáng hôm sau họ tìm
về đơn vị triển khai chiến đấu khi Trung Quốc đã tấn công rồi. Sáng 17-2, Tỉnh
Cao Bằng ra lệnh “sơ tán triệt để khỏi thị xã”; đại đội 22 của thị xã Cao Bằng
được trang bị thêm 17 khẩu súng chống tăng B41. Ngày 18-2, một chiếc tăng Trung
Quốc có “Việt gian” dẫn đường lọt tới Cao Bằng và bị tiêu diệt. Nhiều nơi, chỉ
khi nhìn thấy chữ “Bát Nhất”, người dân mới nhận ra đấy là tăng Trung Quốc. Đại
tá Hà Tám công nhận: “Về chiến lược ta đánh giá đúng nhưng về chiến thuật có bất
ngờ”. Tuy nhiên, Đại tá Hoàng Cao Ngôn, Tỉnh đội trưởng Cao Bằng thời kỳ 17-2,
nói rằng, cho dù không có bất ngờ thì tương quan lực lượng là một vấn đề rất lớn.
Phần lớn quân chủ lực của Việt Nam đang ở chiến trường Campuchia. Sư đoàn 346
đóng tại Cao Bằng nhiều năm chủ yếu làm nhiệm vụ kinh tế, thời gian huấn luyện
sẵn sàng chiến đấu trở lại chưa nhiều. Lực lượng cầm chân Trung Quốc ở tuyến một,
hướng Cao Bằng, chủ yếu là địa phương quân, chỉ có khoảng hơn 2 trung đoàn.
Trong khi, theo tài liệu từ Trung Quốc, chỉ riêng ở
Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung Quốc sử dụng tới 6 sư đoàn; ở Lạng Sơn 3 sư và
Lào Cai 3 sư. Hôm sau, 18-2, Trung Quốc tăng cường cho hướng Cao Bằng 1 sư đoàn
và 40 tăng; Lạng Sơn, một sư và 40 tăng; Lào Cai, 2 trung đoàn và 40 tăng. Lực
lượng Trung Quốc áp sát Biên giới vào ngày 17-2 lên tới 9 quân đoàn chủ lực.
Ngày 17-2, Trung quốc tiến vào Bát xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Đồng
Đăng; 24-2, Trung Quốc chiếm thị xã Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc
đánh vào thị xã.
Thế nhưng, bằng một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều, các
đơn vị Biên giới đã nhanh chóng tổ chức chiến đấu. Theo cuốn “10 Năm Chiến
Tranh Trung Việt”, xuất bản lần đầu năm 1993 của NXB Đại học Tứ Xuyên, quân
Trung Quốc đã gọi con đường tiến vào thị xã Cao Bằng của họ là những “khe núi đẫm
máu”. Đặc biệt, tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau ngày 17-2, chỉ cần
đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua đèo Tài Hồ Sìn,
cũng đã khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía. Những người dân Biên giới cho đến
hôm nay vẫn nhớ mãi hình ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị những cánh quân của
ta cơ động liên tục, đánh cho tan tác. Đầu tháng 3-1979, trong khi hai sư đoàn
346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đòn vu hồi. Từ Campuchia,
sau khi đuổi Pol Pốt khỏi Phnompênh, hai quân đoàn tinh nhuệ của Việt Nam được
điều ra phía Bắc. Ngay sau khi Quân đoàn II đặt những bước chân đầu tiên lên Đồng
Mỏ, Lạng Sơn; Quân Đoàn III tới Na Rì; Chủ tịch Nước ra lệnh “Tổng Động viên”…
ngày 5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân về nước.
Lào Cai, Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn… bị phá tan
hoang. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc phá sạch sẽ từng ngôi nhà, từng công
trình, ốp mìn cho nổ tung từng cột điện. Nếu như, ở Bát Xát, Lao Cai, hàng trăm
phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên
quân Trung Quốc tiến sang. Thì, tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An,
Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút lui, quân Trung Quốc đã giết 43 người,
gồm 21 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết
bằng dao như Pol Pốt. Mười người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị
chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối.
Lặng
Lẽ Hoa Đào
Ngồi đợi ông Nguyễn Thanh Loan, người trông giữ
nghĩa trang Vị Xuyên, Hà Giang, chúng tôi nhìn ra xa. Tháng Hai ở đây mới là
mùa hoa đào nở. Nghĩa trang có 1680 ngôi mộ. Trong đó, 1600 mộ là của các liệt
sỹ hy sinh trong cuộc chiến tranh từ ngày 17-2. Ở Vị Xuyên, tiếng súng chỉ thật
sự yên vào đầu năm 1990. Năm 1984, khi Trung Quốc nổ súng trở lại hòng đánh chiếm
hơn 20 cao điểm ở Thanh Thủy, Vị Xuyên, bộ đội đã phải đổ máu ở đây để giành giật
lấy từng tấc đất. Rất nhiều chiến sỹ đã hy sinh, đặc biệt là hy sinh khi tái
chiếm đỉnh cao 1509. Ông Loan nhớ lại, cứ nửa đêm về sáng, xe GAT 69 lại chở về,
từng túi tử sỹ xếp chồng lên nhau. Trong số 1600 liệt sỹ ấy, chủ yếu chết trong
giai đoạn 1984, 1985, có người chết 1988, còn có 200 ngôi mộ chưa xác định được
là của ai. Sau khi hoàn thành việc phân giới cắm mốc, cái pháo đài trên đỉnh
1509 mà Trung Quốc dành được và xây dựng trong những năm 80, vẫn còn. Họ nói là
để làm du lịch. Từ 1509, có thể nhìn thấu xuống thị xã Hà Giang. Năm 1984, từ
1509 pháo Trung Quốc đã bắn vào thị xã.
Trên đường lên Mèo Vạc, sương đặc quánh ngoài cửa
xe. Từng tốp, từng tốp trai gái H’mông thong thả cất bước du xuân. Có những
chàng trai đã tìm được cho mình cô gái để cầm tay. Một biên giới hữu nghị và
hòa bình là vô cùng quý giá. Năm 1986, vẫn có nhiều người chết vì đạn pháo
Trung Quốc nơi đoạn đường mà chúng tôi vừa đi, nơi các cô gái, hôm nay, để cho
các chàng trai cầm tay kéo đi với gương mặt tràn trề hạnh phúc.
Quá khứ, rất cần khép lại để cho những hình ảnh như
vậy đâm chồi. Nhưng cũng phải trân trọng những năm tháng đã thuộc về quá khứ.
Tháng Hai, đứng ở bên này cửa khẩu Chi Ma, Lạng Sơn, nhìn sang bên kia, thấy lừng
lững một tượng đài đỏ rực mà theo các sỹ quan Biên phòng, Trung Quốc gọi là “
đài chiến thắng”. Trở lại Lạng Sơn, những chiếc xe tăng Trung Quốc bị quân và
dân ta bắn cháy hôm 17-2 vốn vẫn nằm bên bờ sông Kỳ Cùng, giờ đã được bán sắt vụn
cho các khu gang thép. Ở Cao Bằng, chúng tôi đã cố nhờ mấy người dân địa phương
chở ra kilomet số 3, theo hướng đèo Tài Hồ Sìn, tìm tấm bia ghi lại trận đánh
diệt 18 xe Trung Quốc của tiểu đoàn đặc công 45, nhưng không thấy. Trở lại Tổng
Chúp, phải nhờ đến ông Lương Đức Tấn, Bí thư Chi bộ, nguyên huyện đội phó Hòa
An, đưa ra cái giếng mà hôm 9-3-1979, quân Trung Quốc giết 43 thường dân Việt
Nam. Ông Tấn cũng chính là một trong những người đầu tiên trở về làng, trực tiếp
đỡ từng xác phụ nữ, trẻ em, bị chặt bằng búa, bằng dao rồi quăng xuống giếng.
Cái giếng ấy bây giờ nằm sâu trong vườn riêng của một gia đình, không có đường
đi vào. Hôm ấy, anh Tấn phải kêu mấy thanh niên đi theo chặt bớt cành tre cho
chúng tôi chụp hình bia ghi lại sự kiện mà giờ đây đã chìm trong gai tre và lau
lách.
Huy
Đức
Bài đăng trên Sài
Gòn Tiếp Thị ngày
9-2-2009, bản đưa lên báo online bị rút xuống ngay trong buổi sang.
Quá khứ, rất cần khép lại để cho những hình ảnh như vậy đâm chồi. Nhưng cũng phải trân trọng những năm tháng đã thuộc về quá khứ. Tháng Hai, đứng ở bên này cửa khẩu Chi Ma, Lạng Sơn, nhìn sang bên kia, thấy lừng lững một tượng đài đỏ rực mà theo các sỹ quan Biên phòng, Trung Quốc gọi là “ đài chiến thắng”. Trở lại Lạng Sơn, những chiếc xe tăng Trung Quốc bị quân và dân ta bắn cháy hôm 17-2 vốn vẫn nằm bên bờ sông Kỳ Cùng, giờ đã được bán sắt vụn cho các khu gang thép. Ở Cao Bằng, chúng tôi đã cố nhờ mấy người dân địa phương chở ra kilomet số 3, theo hướng đèo Tài Hồ Sìn, tìm tấm bia ghi lại trận đánh diệt 18 xe Trung Quốc của tiểu đoàn đặc công 45, nhưng không thấy. Trở lại Tổng Chúp, phải nhờ đến ông Lương Đức Tấn, Bí thư Chi bộ, nguyên huyện đội phó Hòa An, đưa ra cái giếng mà hôm 9-3-1979, quân Trung Quốc giết 43 thường dân Việt Nam. Ông Tấn cũng chính là một trong những người đầu tiên trở về làng, trực tiếp đỡ từng xác phụ nữ, trẻ em, bị chặt bằng búa, bằng dao rồi quăng xuống giếng. Cái giếng ấy bây giờ nằm sâu trong vườn riêng của một gia đình, không có đường đi vào. Hôm ấy, anh Tấn phải kêu mấy thanh niên đi theo chặt bớt cành tre cho chúng tôi chụp hình bia ghi lại sự kiện mà giờ đây đã chìm trong gai tre và lau lách.
Trả lờiXóaHuy Đức