Liệt sỹ, đại đội trưởng đặc công - PHAN THẾ HÀO
Tháng 8 năm 1967. Đại sứ quán Liên Xô ở phố Trần Phú (Hà Nội) xảy ra một vụ trộm vô cùng kỳ lạ.
Một buổi sáng, khi đến phòng làm việc của mình tại tầng 3 toà nhà chính, Tham tán Ma-ca-rov bỗng nhận thấy con gà vàng vẫn để trên bàn làm việc đã không còn. Ông định thần lại rồi thận trọng kiểm tra mọi ngõ ngách trong phòng. Nhưng con gà vẫn biệt tích. Lúc này ông mới lên tiếng gọi người thư ký, và nhẹ nhàng hỏi về nó. Viên thư ký Mi-sen-ko ngây người ra một lúc, rồi cũng ngó nghiêng quanh bàn với hy vọng con gà bị rơi xuống đâu đó. Nhưng kết quả vẫn không có gì. Khi đã xác định chắc chắn sự việc, viên thư ký liền báo cho bộ phận an ninh của Sứ quán. Hiện trường được giữ nguyên.
Một cuộc truy tìm trong phạm vi hẹp được tiến hành. Trong khu nhà làm việc 3 tầng này, chỉ có cán bộ người Liên Xô. Còn các nhân viên người Việt hầu hết chỉ phục vụ vòng ngoài và đều phải về nhà khi hết giờ. Ban đêm, chịu trách nhiệm bảo vệ vòng trong Sứ quán cũng là người Liên Xô, trong khi vòng ngoài có các trạm gác của cảnh vệ Việt Nam. Và theo nguyên tắc, thì tất cả cũng không được phép đi vào bên trong.
Kết quả ban đầu gần như là con số 0. Bộ phận an ninh Sứ quán xác nhận sau giờ làm việc hôm qua, không có ai ở lại. Trong đêm cũng không phát hiện điều gì lạ. Tại hiện trường không có bất kỳ manh mối nào: dấu khoá cửa vẫn nguyên vẹn, vết trèo tường qua cửa sổ cũng không. Ngoài con gà vàng bị mất, mọi thứ trong phòng đều còn nguyên và không xáo trộn. Thậm chí, cũng không ai nhớ rõ lần cuối mình nhìn thấy con gà vàng là vào lúc nào dù biết rõ ông Ma-ca-rov thường bày nó trên bàn làm việc. Nhưng vì đã quá quen nên cũng không ai chú ý. Chỉ có bản thân ông Tham tán là khẳng định vẫn còn nhìn thấy con gà chiều qua, trước khi ra về; và chính tay ông là người khoá cửa.
Một mất mười ngờ. Một cuộc thẩm vấn nhẹ nhàng và cố gắng hết sức tế nhị diễn ra trong nội bộ Sứ quán. Kết quả vẫn không có gì, ngoài việc tạo nên một bầu không khí trầm lắng, bất ổn.
Đến ngày thứ hai, an ninh Sứ quán đành thông báo cho các bộ phận có trách nhiệm của Việt Nam. Lại điều tra, thẩm vấn. Nhưng lần này là đối với toàn bộ nhân viên người Việt được bố trí làm việc tại đây. Tất cả đều không biết gì. Thậm chí, mọi người còn khẳng định là chưa bao giờ nhìn thấy con gà vàng ấy.
Cả phía Liên Xô và Việt Nam đều cố gắng hợp tác cùng nhau, song vẫn không tìm ra manh mối. Vài ngày, rồi một tuần, thậm chí hai tuần trôi qua. Các bên đều sốt ruột. Vụ việc này có phần khó xử, liên quan đến tính chất ngoại giao, khiến tất cả những ai liên đới đều hết sức đau đầu. Phía Liên Xô còn cử hẳn một chuyên gia KGB tên là Cu-do-nhet-xop sang hỗ trợ.
Ông này làm việc rất bài bản. Trước tiên, ông tìm hiểu, đánh giá năng lực, trình độ của các cán bộ an ninh Việt Nam để tìm cách phối hợp. Sau đó, nhóm chuyên gia KGB phát hiện ra rằng vào cái đêm bị mất con gà, cửa sổ phía bàn làm việc của vị Tham tán chỉ đóng cửa chớp, còn cửa kính để mở. Như vậy rất có khả năng kẻ gian vào qua đường cửa sổ. Nhưng kiểm tra bên ngoài tường từ dưới đất lên vẫn không phát hiện ra vết trèo, hay vệt chân trên bậu cửa sổ. Cạnh cửa sổ cũng không có ống thoát nước hay dây thu lôi để trèo. Cửa chớp cũng không bị phá. Phía ngoài sân có một cây xà cừ to, nhưng cách nhà rất xa. Chỉ có cành của nó vươn vào phía nhà, nhưng lại cao vút lên tận nóc nhà. Nếu dùng cách này, chả lẽ thủ phạm có khinh công để bay vào? Mà xem xét thân cây từ gốc lên cũng không có vệt xước của sự leo trèo. Thế mới lạ.
Do đó, mũi dùi đành quay sang nội bộ các nhân viên Sứ quán nước bạn. Xuất phát từ suy đoán kẻ gian phải là người biết rõ vị Tham tán, các cán bộ KGB cho rằng rất có thể thủ phạm là người Liên Xô. Và thậm chí chính ngài Ma-ca-rov đáng kính cũng bị đặt một dấu hỏi to tướng. Bởi nếu không phải mục đích kinh tế, thì có thể là mục đích chính trị … khi có ai đó muốn làm xấu đi quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Liên Xô? Mọi người quyết định vụ này phải làm cho ra để giải quyết vấn đề danh dự và quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Nhưng tìm như thế nào, thì tất cả đều tịt.
May sao, các trinh sát nhà ta lại tìm đúng hướng. Tây có cách nghĩ của Tây, mà ta thì có cách nghĩ của ta. Vốn mang trong đầu tư tưởng sùng bái Liên Xô thời đó, quân ta thiên về hướng kẻ gian là người Việt và động cơ của vụ trộm này có khi lại rất đơn giản cũng nên, chắc là “đói ăn vụng, túng làm liều” thôi. Phải công nhận tên trộm này quá giỏi, nhưng giỏi mấy thì cũng phải ăn. Lúc đói, nó sẽ phải mang con gà đi bán. Thế là công an ta huy động lực lượng, chìm có, nổi có, an ninh có, mà cánh công an giao thông cũng không chừa … để ngó nghiêng khắp chốn xem có ai bán con gà vàng không. Trong giai đoạn này, việc buôn bán vàng ở Hà Nội bị cấm. Cả thủ đô chỉ có mấy hợp tác xã mỹ nghệ vàng bạc, chế tác đồ trang sức nằm ở phố Hàng Bạc. Thế là cái phố bé tẹo ở khu Hoàn Kiếm, dài có vài trăm mét ấy trở thành mục tiêu chính, mật độ công an chìm nổi còn đông hơn cả dân thường.
Ba tháng trời trôi qua. Mọi việc có vẻ đi vào bế tắc. Cấp trên thì ăn không ngon, ngủ không yên, còn cánh trinh sát thì đã có phần uể oải. May sao, vào một buổi chiều, có một người đàn bà ăn vận như người mua bán đồng nát đi vào một tổ hợp chế tác vàng trên phố Hàng Bạc. Dáng vẻ ngập ngừng của bà khiến các trinh sát để ý. Vì vậy, khi bà ta vừa mở chiếc khăn tay lấy ra một mẩu vàng để dạm bán, lập tức cánh trinh sát ập lại. Mẩu vàng đó tuy đã bị đập dẹp, nhưng có hình một chiếc chân gà.
Tại cơ quan công an, bà ta khai ngay ra người bán. Theo đó, các chiến sĩ công an tìm đến một căn nhà tập thể nằm cuối phố Cát Linh. Trong nhà chỉ có một cậu bé gầy gò, đen nhẻm chừng 12 – 13 tuổi. Trên khuôn mặt gầy là đôi mắt sáng và rất lanh lợi. Thấy nhiều người đến nhà, có cả bà bán đồng nát, cậu bé hiểu ngay ra sự việc. Tuy có hơi sợ, nhưng cậu ta không tìm cách bỏ trốn, cũng không chối quanh co. Cậu chui vào gầm giường và lôi ra một gói giấy, giao nộp. Trong đó là một con gà bằng vàng to bằng nắm tay trẻ con, bị mất mất một chân.
Chuyện tên trộm kể:
Cậu tên là Hào, năm nay 13 tuổi, là con một cán bộ có cỡ trong ngành Ngoại giao. Lúc đó, ông đang làm Tham tán tại Đại sứ quán Việt Nam ở Liên Xô. Do công việc nên ông có quen biết với Tham tán Ma-ca-rov và còn có phần hơi thân. Đầu năm nay, ông về Việt Nam nghỉ phép. Vì chỉ có một cậu con trai, nên đi đâu, ông cũng cho Hào theo. Trong một lần như thế, Hào đã được cùng bố vào Đại sứ quán Liên Xô thăm ngài Ma-ca-rov. Trong lúc bố nói chuyện thì Hào ngồi im, khép nép và lặng lẽ ăn kẹo. Với thiên tính bẩm sinh, nó đã kín đáo quan sát được khá đầy đủ phòng làm việc của ông Tham tán, và dĩ nhiên, Hào nhìn thấy con gà vàng.
Về nhà, Hào hỏi bố nhiều thứ, trong đó có con gà. Bố cậu đã hào hứng kể cho con trai nghe về lai lịch con gà vàng. Rằng trong một nhiệm kỳ công tác tại Nam Phi, ông Ma-ca-rov đã được một người bạn là thương gia tặng cho một món quà quý: đó chính là con gà vàng. Nó được làm từ gần 300 gram vàng nguyên chất, nặn theo dáng của một chú gà con. Ông Ma-ca-rop rất quý món quà này. Khi nhận nhiệm vụ sang Việt Nam, ông đã mang theo con gà kỷ niệm. Ít lâu sau, bố Hào trở lại Liên Xô. Vốn là một chú bé thông minh và hết sức tinh nghịch, Hào đã nảy ra ý định lấy cắp con gà với một kế hoạch hoàn hảo tới mức, ngay cả các cán bộ công an thực thụ cũng chưa chắc nghĩ ra.
Hào quay lại theo dõi Sứ quán và phát hiện ra một việc gần như quy luật. Cứ khoảng 7 giờ tối là có một chiếc xe Com-măng-ca đi từ đường Cát Linh xuyên tắt qua con đường đất phía bên phải sân vân động Hàng Đẫy, để ra góc đường giữa phố Hàng Cháo và Nguyễn Thái Học, rồi từ đó đi sang phố Trần Phú về Sứ quán Liên Xô. Quãng đường vòng qua sân vận động Hàng Đẫy là đường đất, gập ghềnh có nhiều ổ voi. Tại góc ngoặt, chỗ cột đèn pha cao thế phía phố Phan Phù Tiên có một cái ổ lõm to. Khi đi qua đó, chiếc xe phải đi chậm, và đèn xe không rọi rõ được trong lòng hố. Cả đoạn đường này lại không hề có đèn đường. Đến sáng hôm sau, vẫn chiếc xe đó từ cơ quan Sứ quán đi ra theo đường cũ vào lúc 5 giờ sáng. Lúc này trời hãy còn tối, và hầu như không có người qua lại trên đường.
Hào thận trọng quan sát và kiểm tra kỹ nhiều lần. Đoạn đường từ cái ổ voi to mà nó chọn đến cổng cơ quan Sứ quán chỉ dài hơn nửa cây số. Chiếc xe Com-măng-ca đi theo chiều ra hay vào thì lần nào cũng chỉ hết chưa đầy 10 phút. Đó chính là cơ sở để nó quyết định chọn kế hoạch đột nhập.
Một buổi tối trời, Hào đã nằm sẵn trong lòng cái hố to ở góc ngoặt chỗ cột đèn pha cao áp. Nó chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi và bôi đất khắp người. Khi chiếc xe ô-tô chầm chậm đi qua hố, nó bám vào gầm cầu xe và nằm treo như thế để theo xe vào Sứ quán. Chiếc ô-tô vào cổng và đi vòng ra sau toà nhà chính rồi đỗ lại. Sau đó xe lùi vào khu ga-ra. Nhà để ô-tô của Sứ quán cũng chỉ là một dãy nhà thấp sát tường lợp phibro xi-măng và không có cửa. Người lái xe tắt máy, đóng cửa xe và ra về. Hào buông mình xuống nền nhà và nằm đợi ở đó. Về đêm, cả Sứ quán im lìm. Những người trực đêm chỉ ngồi trong phòng và không tổ chức đi tuần. Cửa sổ phòng làm việc của ông Tham tán nằm ở mặt sau toà nhà. Cả vùng sân sau chỉ có hai ngọn đèn tròn mắc tít trên góc, sát mái tầng ba của toà nhà, hắt xuống đất một thứ ánh sáng mờ mờ vàng ệch và không soi sáng được cả sân.
Trong sân có nhiều cây xà cừ to, tạo thành nhiều bóng khuất. Có một cây vươn cành cao quá nóc nhà và chếch phía trên cửa sổ phòng làm việc của ông Tham tán. Toàn bộ sân được rải một lớp sỏi, những hòn cuội to như ngón chân cái. Khi bước chân qua, đám sỏi trượt vòng lạo xạo và không thể lưu lại dấu vết. Đó là tất cả những gì Hào thu thập được trong một đêm quan sát. Mờ sáng, nó bám sẵn vào gầm xe ô-tô và theo xe ra bên ngoài. Khi tới cái ổ voi ngoài đường đất, Hào thả tay rơi xuống. Đợi chiếc xe ô-tô chạy khuất, nó mới lồm cồm bò dậy về nhà. Mẹ nó bận đi làm ca nên cũng không hay biết gì.
Trong sân có nhiều cây xà cừ to, tạo thành nhiều bóng khuất. Có một cây vươn cành cao quá nóc nhà và chếch phía trên cửa sổ phòng làm việc của ông Tham tán. Toàn bộ sân được rải một lớp sỏi, những hòn cuội to như ngón chân cái. Khi bước chân qua, đám sỏi trượt vòng lạo xạo và không thể lưu lại dấu vết. Đó là tất cả những gì Hào thu thập được trong một đêm quan sát. Mờ sáng, nó bám sẵn vào gầm xe ô-tô và theo xe ra bên ngoài. Khi tới cái ổ voi ngoài đường đất, Hào thả tay rơi xuống. Đợi chiếc xe ô-tô chạy khuất, nó mới lồm cồm bò dậy về nhà. Mẹ nó bận đi làm ca nên cũng không hay biết gì.
Hào lại tiếp tục vạch và hoàn thiện kế hoạch. Vào cái đêm định mệnh, phi vụ đánh cắp con gà vàng chính thức bắt đầu. Hào mặc một chiếc quần đùi đen và một cái áo sẫm mầu. Vạt áo được cài vào cạp quần. Người vốn đã đen, nên nó chỉ lấy một chút đất bùn xoa thêm lên vài chỗ trên người là đã khó nhận ra nó trong bóng tối. Lần này nó đem theo một sợi dây thừng dài, một cái túi vải nhỏ, một đôi tất và một chiếc nan hoa xe đạp.
Chập tối, Hào nằm phục sẵn trong lòng hố. Lần này, nó dễ dàng bám vào được gầm xe khi chiếc Com-măng-ca chậm rãi lăn bánh qua. Vào đến Sứ quán, nó lại lọt vào khu ga-ra và nằm im tại đó. Quá nửa đêm, Hào chui ra khỏi nhà xe. Không gian bốn bề vẫn yên tĩnh. Nó khom người rón rén tiến lại cây xà cừ to thẳng đối diện cửa sổ phòng ông Tham tán. Lấy sợi dây thừng, buộc vào đó một viên sỏi to, Hào ném vắt lên cành xà cừ ở tầm ngang cách đất chừng 4 mét. Sau đó, nó túm lấy đầu dây có viên sỏi, so 2 đầu dây buộc lại rồi đu người leo lên cây sà cừ. Tại đây, Hào rút lại sợi dây thừng rồi trèo dần lên tận tít cành cao phía trên cửa sổ tầng 3, chỗ phòng ông Ma-ca-rov. Từ chỗ đó, nó lại buộc sợi dây thừng vòng vào cành cây. Đầu kia, Hào buộc thắt quanh bụng rồi đu người theo sợi dây tụt xuống, lơ lửng đúng vị trí cửa sổ. Cứ treo người như thế, Hào xỏ tay vào chiếc tất rồi loay hoay dùng chiếc nan hoa xe đạp luồn vào cậy chốt cửa.
Cũng phải nói thêm là Hào tuy gầy, nhưng khoẻ và dai sức, chứ bọn trẻ con vào tuổi ấy, mấy ai có thể treo được mình trên sợi dây thừng suốt mấy chục phút như thế. Rồi nó cũng cậy được cái chốt và nhẹ nhàng kéo mở được cánh cửa chớp. Hào mừng rơn khi thấy hai cánh cửa kính mở toang, và con gà vàng vẫn đặt ở góc bàn ngay sát cửa sổ. Vẫn trong tư thế treo mình, Hào lắc người đu đưa vài nhịp để văng mình vào sâu trong cửa sổ, rồi nhoài tay vào túm lấy con gà vàng. Nó nhanh chóng cất con gà vào cái túi đeo ở cổ, lựa chốt khép lại hai cánh cửa chớp, rồi rút người trèo ngược lên cành cây. Nó bình tĩnh ngồi nghỉ ít phút cho lại sức, rồi theo lối cũ tụt xuống. Sau khi lò dò lại gầm cái ô-tô, Hào buộc chặt lại mọi thứ rồi nằm nghỉ. Sáng hôm sau, chiếc ô-tô lại đưa Hào ra ngoài theo đường cũ. Đến cái ổ voi ở con đường đất cạnh sân Hàng Đẫy, nó thả mình xuống nhẹ nhàng rồi bình an vô sự về nhà.
Mọi dấu vết của cuộc đột nhập chỉ bao gồm hai vết hằn của sợi dây thừng buộc ở hai chỗ trên cây xà cừ, và vết thằng Hào bò trên một đoạn cành cây giữa hai chỗ buộc đó, nhưng chắc chỉ mờ mờ. Vì không một ai, kể cả các cán bộ an ninh Việt nam và Liên xô có thể suy đoán ra đối tượng và cách đột nhập, nên cũng chẳng ai đề xuất ra việc kiểm tra dấu vết trên cành cây ở tít cái chỗ trên cao ấy. Mọi việc kiểm tra thông thường như tìm dấu vết trong nhà, trên cửa sổ, trên tường, lấy dấu vân tay, hay tìm dấu vết tại ngay các gốc cây đều không có kết quả là điều dễ hiểu.
Không thể ngờ đến đối tượng của vụ trộm là một đứa trẻ như Hào, lại càng không thể ngờ đến diễn biến xảy ra như lời kể của nó, vụ việc được yêu cầu dựng lại. Ngoài các cán bộ nghiệp vụ an ninh của cả ta và bạn, đích thân Thứ trưởng Công an Tạ Đình Khai, cán bộ KGB Cu-do-nhet-xop và cả ngài Tham tán Ma-ca-rov cùng chứng kiến. Theo yêu cầu của ông Cu-do-nhet-xop, cuộc trình diễn được thực hiện theo đúng các mốc thời gian như Hào đã trình bày. Tất cả những người có mặt đều vô cùng hồi hộp và phấn khích theo dõi các động tác của Hào. Nó đã thực hiện cuộc trình diễn một cách chính xác và hoàn hảo. Cảm giác cuối cùng của mọi người là vô cùng thán phục thằng bé Việt Nam 13 tuổi.
Tất nhiên là Hào có tội, tội to nữa là đằng khác. Nhưng vì cảm phục tài năng của Hào và cũng vì cậu mới chỉ là một thiếu niên, nên đã có nhiều tác động từ nhiều người, nhiều phía đến số phận của nó. Hào được đưa vào trường Thiếu sinh quân.
Chuyện về người lính đặc công.
Cũng năm đó, Binh chủng Đặc công được thành lập, Hào được chuyển về trường Đặc công. Ba năm sau, khi mới 16 tuổi, Hào trở thành một chiến sĩ đặc công, và tình nguyện vào Nam chiến đấu.
Trong một đêm mưa tầm tã ở chốt Khe Đá dưới chân dãy Chư Giông Giàng giữa mùa mưa năm 1974, tôi đã được đại đội trưởng đặc công Phan Thế Hào kể cho nghe câu chuyện này. Đơn vị chúng tôi nhận bàn giao chốt thay cho đại đội đặc công của Hào. Các đơn vị đặc công thường chỉ đánh mật tập vào các sở chỉ huy hay căn cứ trọng yếu của địch trong những chiến dịch then chốt, giành chiến thắng nhanh. Nói chung, họ không cần phải chiếm giữ trận địa. Trường hợp cần giữ địa bàn lâu như vùng Khe Đá này, thì các đơn vị bộ binh phải tiếp quản. Quen nhau đã 3 ngày, và khi biết tôi cũng là lính Hà Nội, lại trạc tuổi nhau, nên Hào kể lại câu chuyện cũ.
Tiếng anh kể đều và nhỏ, đôi lúc lẫn vào tiếng mưa rơi lộp bộp trên mặt tấm tăng căng che xéo trên nóc cửa hầm. Thỉnh thoảng anh dừng lại, im lặng một chút như để nhớ cho rõ lại sự việc. Những lúc đó, tôi vẫn nằm im, không ngắt lời và cố hình dung ra từng hành động của anh ngày ấy.
Tiếng anh kể đều và nhỏ, đôi lúc lẫn vào tiếng mưa rơi lộp bộp trên mặt tấm tăng căng che xéo trên nóc cửa hầm. Thỉnh thoảng anh dừng lại, im lặng một chút như để nhớ cho rõ lại sự việc. Những lúc đó, tôi vẫn nằm im, không ngắt lời và cố hình dung ra từng hành động của anh ngày ấy.
Kể xong, Hào ngồi dậy quấn một điếu thuốc và châm lửa hút. Hơi thuốc anh phả ra nồng nồng, nhưng cũng làm cho căn hầm ấm áp thêm trong đêm mưa lạnh. Bên ngoài, mưa vẫn rơi nặng hạt. Thỉnh thoảng lại có đợt gió thổi ào ào, kéo nghiêng ngả những cây Bằng Lăng lưa thưa trên chốt, hắt cả đám nước mưa ràn rạt lên nóc tăng. Chúng tôi cùng lặng im và nhớ về Hà Nội. Tôi nhìn cái vóc dáng nhỏ bé và rắn chắc của anh, hình dung ra cái lúc anh trèo cây và đu đưa người trước cửa sổ tầng 3 của Sứ quán Liên Xô:
― Cậu ghê thật đấy. Tớ chỉ nghe thôi mà cũng thấy hồi hộp và run hết cả người. Thế cậu định lấy con gà vàng để làm gì?
― Chơi thôi, nghịch ngợm trẻ con ấy mà. ― Hào cười, giọng bình thản.
― Nhưng mà cậu cũng liều thật. Nhỡ mấy ông Tây trong Sứ quán mà canh gác hẳn hoi, tương cho mấy phát đạn thì xong rồi còn gì.
― Ừ, bây giờ nghĩ lại thấy cũng liều mà dại. Chứ lúc đó chỉ thấy hăng hái thôi. ― Hào thú nhận.
― Nhưng dầu sao cũng có cái hay. Tớ nghĩ, lúc đó mà cậu đã thế rồi thì bây giờ đánh nhau giỏi là phải. Bốn năm chiến đấu, lên đến đại đội trưởng rồi còn gì.
Hào im lặng một lúc, rồi bảo, có vẻ như lạc đề:
― Cũng chẳng giỏi giang gì đâu. Tớ nghĩ đặc công giỏi đánh mật tập, đánh điểm, nhưng ở kiềng, giữ chốt thì thua xa cánh bộ binh các cậu.
― Thế nên bọn mình mới phải ra thay chốt ngay cho các cậu.
Hào cười. Sao lúc ấy trông anh hiền thế. Chúng tôi còn tán gẫu vơ vẩn nhiều chuyện khác nữa. Rồi hai thằng ôm nhau ngủ. Lính mà.
Sáng hôm sau, chúng tôi chia tay nhau. Đơn vị Hào chuyển địa bàn nhận nhiệm vụ khác, còn chúng tôi ở lại giữ chốt Khe Đá. Chúng tôi đã ở đó và đánh địch, giữ chốt đến cuối mùa mưa.
.
Tháng 3 năm 1975. Quân ta mở chiến dịch Tây Nguyên. Các đơn vị thuộc Quân đoàn 3, mặt trận Tây Nguyên tấn công đánh chiếm Thị xã Buôn Ma Thuột.
Nằm trong đội hình của Đoàn Đặc công 198, đại đội của Hào đánh chiếm Phi trường Hoà Bình phía Đông thị xã. Trận đánh Phi trường của đặc công diễn ra thật gọn ghẽ. Lúc 10 giờ sáng ngày 10/3/1975, khi các đơn vị bộ binh của Sư 316 và Trung đoàn 95B của ta còn đang giằng co với địch tại khu căn cứ của Sư 23 Ngụy và khu nhà kho Mai Hắc Đế, thì đại đội của Hào đã làm chủ Phi trường Hoà Bình và được lệnh nằm lại chốt giữ, sẵn sàng đánh quân phản kích. Không có đơn vị bộ binh nào của ta tiếp quản Phi trường, thay thế cho đơn vị của Hào.
Điều Hào nghi ngại và tâm sự với tôi vào cái đêm mưa năm trước ở chốt Khe Đá, thì nay đã xảy ra. Trong Phi trường Hoà Bình có khu hầm ngầm mà trinh sát không biết. Buổi sáng, khi bị đặc công ta bất ngờ tấn công, một lực lượng lớn địch đã nhanh chóng rút xuống hầm ngầm. Lính đặc công quen mật tập, giỏi chiến thuật “Nở hoa trong lòng địch”, đánh nhanh, thắng nhanh nhưng không thạo đánh chốt. Họ không có đủ người và cũng không tổ chức sục sạo khắp nơi. Trong ngày hôm đó, cả đại đội của Hào hầu như chỉ nghỉ ngơi lấy sức. Đến đêm, họ cũng chỉ tổ chức canh gác bình thường, mà hướng quan sát chủ yếu lại là phía bên ngoài. Tất cả hầu như vẫn trong trạng thái nghỉ, chờ sáng để chống phản kích từ ngoài vào.
Nhưng không cần chờ đến hôm sau, 2 giờ sáng đêm đó, lực lượng địch từ dưới khu hầm ngầm đã tổ chức phản kích, bất ngờ xuất hiện ngay giữa đội hình đơn vị đặc công. Đại đội của Hào đã bị tổn thất nặng ngay từ đầu. Số chiến sĩ còn lại, mặc dù chiến đấu anh dũng nhưng cũng không chống lại được. Cả đại đội hy sinh gần hết, trong đó có đại đội trưởng Phan Thế Hào. Khi đó, Hào mới vừa tròn 21 tuổi.
Phải đến gần trưa hôm sau, các đơn vị bộ binh của trung đoàn 95B mới được điều đến đánh chiếm lại sân bay.
.
Tin tức cuối cùng của Hào, tôi chỉ được biết sau khi miền Nam đã giải phóng. Từ khu Bình Dương, Sư đoàn chúng tôi trở lại Cao nguyên làm nhiệm vụ tiễu trừ Fulro vào tháng 8/1975. Tiểu đoàn chúng tôi đóng quân ngay tại Phi trường Hoà Bình. Tôi đã có dịp đi khắp Phi trường, được xem xét khu công sự và khu hầm ngầm của địch. Lúc đó trên mặt đất và trong các hầm hào vẫn còn vương đầy các loại đạn đại liên, đạn cối cá nhân M79, rốc két M72 và nhiều khí tài khác. Tại đây, tôi đã được nghe kể lại cuộc chiến đấu của đơn vị đặc công trong một buổi học tập rút kinh nghiệm các trận đánh điển hình. Tôi đã lặng người trước tin Hào hy sinh. Tôi nghĩ, nếu như có bộ binh phối thuộc kịp thời, chắc Hào đã không chết.
Vũ Công Chiến
P/s: Kỷ niệm Ngày chiến thắng đã tới gần. Nghiêng mình tưởng nhớ anh linh các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh xương máu cho chúng ta có cuộc sống hòa bình, đất nước thống nhất. Hy vọng câu chuyện ít người biết này sẽ cho các bạn thêm tin tưởng vào tài, trí, dũng, nhân của người Việt Nam ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét