Thứ Sáu, 16 tháng 6, 2023

TIẾNG SÚNG CƯ KUIN, ĐAK LAK

 


PHẠM ĐÌNH TRỌNG
1. Đất nước thanh bình mà trong một đêm yên tĩnh rạng sáng 11 tháng sáu năm 2023, hàng chục người dân da đen cháy vì quanh năm trần lưng phát rẫy, làm nương bỗng tập hợp thành hai nhóm mang súng đạn cùng lúc lao vào tấn công trụ sở công an hai xã trong huyện Cư Kuin, tỉnh Đak Lak, giết chết chín người gồm bốn sĩ quan công an, hai cán bộ xã và ba người dân, bắn bị thương hai sĩ quan công an khác là sự việc vô cùng nghiêm trọng.
Nửa đêm khuya khoắt, ba người dân chết ở chỗ nổ súng tấn công chính quyền, chắc chắn không phải dân làm rẫy, chỉ có thể là nhân viên làm việc ở trụ sở công quyền bị tấn công. Nếu vậy, chín người chết đều là viên chức nhà nước.
Tấn công trụ sở công quyền nhà nước, thẳng tay bắn giết viên chức nhà nước đương nhiên là tội ác hoang dại, không biết đến pháp luật, không biết đến đạo đức, không thể chấp nhận, phải bị truy tố và nhận án thoả đáng. Nhưng tiếng súng đó cũng là tiếng nổ, là sức phá của mâu thuẫn xã hội, là tiếng chuông gióng giả vang lên cảnh báo sự bất ổn trong xã hội và sự bất an trong lòng người dân đã lan rộng, lan xa đến tận buôn làng người dân tộc hồn nhiên, chân chất.
Dù những người nổ súng tấn công cơ quan chính quyền, giết cán bộ nhà nước đều là người dân sắc tộc Tây Nguyên nhưng vụ việc không đơn thuần chỉ là xung đột sắc tộc mà còn là bộc lộ trong xã hội đã chứa chất mâu thuẫn tới mức đối kháng, một mất một còn. Mâu thuẫn giữa một bộ phận người dân yếu thế với chính quyền luôn ỷ vào sức mạnh bạo lực nhà nước, ỷ vào lực lượng công an khổng lồ, được trang bị kĩ lưỡng, trang bị từ vũ khí tối tân đến trang bị tư duy nhận thức, không biết đến số phận con người, không biết ơn nghĩa nhân dân, không biết đến những giá trị nhân văn, chỉ biết còn đảng còn mình. Có công cụ trấn áp đầy sức mạnh, nhà nước ngạo nghễ áp đặt ý chí chủ quan của nhà nước chuyên chính vô sản với người dân, không quan tâm đến khát vọng, nhu cầu đơn giản, bình thường và chính đáng từ đời sống vật chất đến đời sống tâm linh của người dân.
Người dân các dân tộc ít người, nhỏ bé, lẻ loi ở Tây Nguyên có không gian sống riêng biệt và linh thiêng, không gian của Giàng, của thần linh, có tài sản riêng to lớn và quí giá không chỉ là đất đai núi rừng bát ngát mà nền văn hoá riêng rất đặc sắc, độc đáo và cuộc sống tự do cũng là tài sản vô giá của những con người ngàn đời kiêu hãnh là con của Cha Núi, con của Mẹ Rừng nhưng lại là những tộc người dân số ít ỏi, cuộc sống nghèo khổ, phụ thuộc và gắn bó mật thiết với thiên nhiên, là nhóm người yếu thế, thân cô, thế cô nhất, bị coi thường, bị mất mát, bị dồn nén, ức chế lớn nhất.
Yếu thế, thân cô thế cô, người dân phải nhận từ mất mát, thua thiệt này đến mất mát, thua thiệt khác, đi từ dồn nén này đến dồn nén khác thành quẫn trí, liều thân, chấp nhận thí cả mạng sống, thí cả cuộc đời vào mất mát cuối cùng cho một hành động, một tiếng nói phản kháng.
2. Thời Pháp cai trị cả Đông Dương, dù là thực dân xâm lược, nhiều quan Pháp cai trị có nền tảng văn hoá nhân loại dày dặn khi đến Tây Nguyên họ nhận ra ngay nét độc đáo của những bộ tộc dân cư Tây Nguyên làm cho xã hội loài người thêm phong phú, làm cho con người có thêm vẻ đẹp, thêm sức mạnh văn hoá. Họ phát hiện ra ngay nền văn hoá lâu đời vô cùng đặc sắc của các bộ tộc Tây Nguyên góp cho kho tàng văn hoá loài người thêm lung linh , rực rỡ.
Những trí tuệ văn hoá và tâm hồn nhân văn phát hiện ra vẻ đẹp văn hoá dân gian Tây Nguyên cũng giống như bác sĩ Alexandre Yersin phát hiện ra khí hậu mát lành của Đà Lạt, của Tây Nguyên. Phát hiện của Yersin về khí hậu Đà Lạt được lọc qua lá cây, lọc qua sương mù, tinh khiết và mát lành dẫn đến quyết định của toàn quyền Đông Dương Paul Doumer xây dựng thành phố nghỉ dưỡng Đà Lạt. Phát hiện ra nét đặc sắc văn hoá dân gian Tây Nguyên, chính quyền thực dân Pháp đã có chính sách bảo tồn không gian văn hoá Tây Nguyên, hạn chế người Kinh ở miền xuôi đến khai phá đất rừng hoang hoá bạt ngàn và màu mỡ, tạo ra nguy cơ biến những cánh rừng nguyên sinh thành ruộng lúa, vườn cây, thành làng xóm người Kinh, biến những đồi cỏ thành đô thị náo nhiệt, tất dẫn đến nền văn hoá đầy bản sắc của những bộ tộc ít người ở Tây Nguyên bị nền văn hoá rực rỡ của số đông người Kinh đồng hoá.
Văn hoá không phải chỉ là tiếng cồng của con trai, điệu múa của con gái, tiếng hát khan của người già Tây Nguyên, văn hoá còn là tín ngưỡng, là đức tin. Tin ở Giàng, tin ở thần linh, đức tin tôn giáo là một giá trị sống của người dân Tây Nguyên, làm nên thế giới tâm hồn người dân Tây Nguyên. Trân trọng giữ gìn bản sắc văn hoá Tây Nguyên, đức tin tôn giáo của người dân Tây Nguyên cũng được tôn trọng. Thời Pháp thuộc, người dân được tự do tìm đến đức tin của mình và giáo phái Tin Lành phát triển rất mạnh ở Tây Nguyên.
Chính sách hạn chế sự ngoại nhập vào không gian văn hoá Tây Nguyên đã giữ cho núi rừng Tây Nguyên màu xanh bạt ngàn và thần rừng, thần núi vẫn lãng đãng đi về với ngôi nhà rông, với những nếp nhà sàn núp dưới tán rừng thâm nghiêm.
Chỉ đến năm 1937, quản đạo Đà Lạt là Trần Văn Lý thấy đất Đà Lạt dù màu mỡ nhưng chênh vênh dốc không thuận cấy lúa song lại là đất tốt của hoa màu, cây trái, quản đạo Đà Lạt Trần Văn Lý đề nghị với tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu đưa những nông dân Hà Đông chuyên nghề trồng rau, trồng hoa cung cấp cho Hà Nội vào Đà Lạt. Từ hai mươi tám gia đình nông dân từ Hà Đông vào Đà Lạt năm 1937 đến nay đã là hàng ngàn gia đình trồng rau, trồng hoa, biến những đồi hoang bên đồi thông Đà Lạt thành đồi rau, đồi hoa.
Gần hai mươi năm sau, năm 1954, trong số hơn triệu người di cư từ Bắc vào Nam, chỉ có hơn năm mươi ngàn dân di cư được đưa lên đất rừng Tây Nguyên mênh mông. Lên Tây Nguyên nhưng dân Bắc đi cư chỉ bám theo truc đường giao thông từ Hố Nai lên Đà Lạt.
Dân trồng rau, trồng hoa từ Hà Đông vào Đà Lạt, dân di cư rải dọc đường 20 đều không xâm nhập vào không gian sống và không gian văn hoá của các bộ tộc tạo nên linh hồn núi rừng Tây Nguyên, tạo nên văn hoá Tây Nguyên. Nhờ vậy những cánh rừng đại ngàn vẫn phủ kín đất Tây Nguyên. Hồn rừng, hồn văn hoá của người Tây Nguyên vẫn nguyên vẹn.
Nhưng từ sau năm 1975, những cán bộ công nông chỉ cần có bằng cao cấp lí luận chính trị của trường đảng Nguyễn Ái Quốc, chỉ cần kiên trì chủ nghĩa sắt máu Mác Lê nin, chỉ có ý chí áp đặt chuyên chính vô sản với cuộc sống, với người dân là trở thành quan cai trị mảnh đất linh thiêng huyền thoại Tây Nguyên.
Quan người Kinh cai trị thì phải có bộ sậu cán bộ người Kinh có bằng lí luận trường đảng Nguyễn Ái Quốc, có khuôn mẫu thiết chế xã hội người Kinh ở đồng bằng áp đặt cho Tây Nguyên. Cả gia đình, cả họ hàng, cả làng xóm quan cai trị từ đồng bằng ven biển tràn lên Tây Nguyên, phá rừng lập làng, bạt núi lập phố trên đất buôn làng, nương rẫy Tây Nguyên.
Tầm nhìn hạn hẹp, chỉ thấy trước mắt, không thấy lâu dài, không có chiều sâu văn hoá, những chủ trương, những dự án phá rừng trồng cao su, cà phê hình thành trong phòng máy lạnh quan cai trị.
Tư bản hoang dã làm giầu bằng đất đai, bằng tài nguyên thiên nhiên đi đêm với quan cai trị, khoanh vùng chiếm đất Tây Nguyên trên bản đồ.
Những công ty cao su phá hàng trăm hecta rừng trồng cao su. Hàng trăm hecta rừng mất đi cho sân golf, cho resort, cho những khu đô thị mọc lên. Hàng ngàn hecta rừng chìm dưới lòng hồ thuỷ điện . . . Những cánh rừng thăm thẳm của thần linh, của huyền thoại, sử thi Tây Nguyên nhanh chóng biến mất.
Năm 1954, các dân tộc Tây Nguyên chiếm 85 phần trăm dân số, 510 ngàn dân trên tổng số 600 ngàn dân. Tỉ lệ và con số đó những năm sau là: Năm 1976 chỉ còn 69,7 phần trăm. 853 ngàn dân Tây Nguyên trên tổng số 1, 225 triệu dân. Năm 2004 tỉ lệ dân tộc Tây nguyên chỉ còn chiếm 25,3 phần trăm. 1, 181 triệu trên 4, 668 triệu dân. (Tây Nguyên. Wikipedia tiếng Việt)
Người Kinh đã thực sự làm chủ dải đất Tây Nguyên. Quan người Kinh nắm quyền. Dân người Kinh chiếm đất. Bên những dãy nhà tầng san sát ở thị trấn người Kinh trên sườn đồi, bên những chòm xóm nhà ngói giếng nước của người Kinh dưới thung lũng là lẻ loi mái nhà sàn tranh tre xơ xác tuềnh toàng của người dân Tây Nguyên. Người chủ ngàn đời của rừng thiêng Tây Nguyên, của văn hoá Tây Nguyên nay thành người ăn nhờ ở đậu, thành kẻ thất thế, lưu vong ngay trên mảnh đất của tổ tiên.
Rừng vừa là nguồn sống vật chất, là đọt măng rừng, là tổ ong mật. Vừa là nguồn sống tâm linh. Cha Núi cao, Mẹ Rừng rộng là sự che chở, bao bọc, là nơi sống gửi, thác về của người dân Tây Nguyên. Rừng Tây Nguyên không còn. Nguồn sống vật chất không còn. Không gian văn hoá Tây Nguyên không còn. Nguồn sống tinh thần không còn. Thần linh của rừng không còn. Đời sống tâm linh không còn. Đến đức tin tôn giáo cũng không còn!
Chiều 22.3.2023, giáo dân xã Đak Nông, huyện Ngọc Hồi, giáo xứ Kontum đang làm lễ Thánh hợp pháp như thường ngày thì nhóm người mặc đồ dân sự và sắc phục công an xộc vào nhà thờ, tự xưng là chính quyền, giải tán buổi lễ. Người nói tiếng Kinh, giọng miền Bắc xông lên bục linh mục đang làm lễ đòi linh mục dừng lễ, đến công an làm việc rồi cầm sách Kinh Thánh của linh mục, gấp lại, mang đi. Người ngắt cầu dao, cúp điện. Đức tin tôn giáo không còn là phần hồn của người Tây Nguyên cũng không còn!
Mỗi sắc tộc có mặt trong cuộc đời đều cần có không gian sinh tồn của sắc tộc. Có không gian sinh tồn, mới có sức mạnh trường tồn của sắc tộc, mới giữ được bản sắc riêng của sắc tộc và mới thực sự là mình. Không có không gian sinh tồn dù có những cá nhân của sắc tộc có mặt trong cuộc đời thì cá nhân đó đã bị văn hoá nơi sinh sống đồng hoá, còn sắc tộc đó đã bị hoà tan rồi.
Những sắc tộc Tây Nguyên đang trong quá trình không còn không gian sinh tồn, đang bị hoà tan. Những người chủ ngàn đời của mảnh đất Tây Nguyên, ngàn đời tự do phóng khoáng với cây rừng thân thiết, với đất rừng bao dung phải đau đớn, tuyệt vọng nhận ra một thực tế từ sau 1975 họ dần dần mất hết. Mất nguồn sống hàng ngày. Mất giá trị văn hoá. Mất cả đức tin. Đó là cội rễ sâu xa của tiếng súng Cư Kuin, Đak Lak đêm 11.6.2023.
3. Tiếng súng Cư Kuin, Đak Lak đêm 11.6.2023 giết chết chín mạng người trong cuộc sống thời yên hàn là thất bại đau đớn trong công cuộc cai trị dân của chính quyền, là thất bại nặng nề trong trọng trách bảo đảm trật tự trị an, an toàn xã hội của bộ máy công an khổng lồ, được trang bị tối đa, được chăm bẵm tuyệt đối.
Một người nổ súng thì ý đồ và quá trình sự việc diễn ra âm thầm trong suy nghĩ, trong nội tâm, người ngoài khó phát hiện. Nhưng vài chục người cùng hành động là phải có quá trình dài, vận động, tập hợp, tổ chức, phân công, chuẩn bị với nhiều hoạt động dù lén lút nhưng phải diễn ra trong không gian rộng, cả không gian thực trên mặt đất, cả không gian mạng trên trời và diễn ra trong thời gian dài. Hoạt động nổi cộm ráo riết như vậy mà lực lượng công an rải kín địa bàn, nắm địa bàn từng giây, từng phút không hay biết để ngăn chặn. Máu những sĩ quan công an đổ ra ngay trong phòng ngủ trụ sở công an là một thất bại, một trận thua trắng. Trong thất bại đó, bốn sĩ quan công an đương nhiệm bị giết hại có phần trách nhiệm không nhỏ. Vậy mà những sĩ quan không hoàn thành nhiệm vụ lại được thăng quân hàm như đã lập chiến công xuất sắc!
Lại ngậm ngùi thương nhớ ba sĩ quan công an chết trong sự kiện ba ngàn cảnh sát cơ động rầm rập bao vây tấn công người dân thôn Hoành, Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội đang trong giấc ngủ bình yên đêm 9.1.2020.
Người dân thôn Hoành khiếu kiện đất đai là tranh chấp dân sự rất bình thường và nhỏ nhặt. Tranh chấp dân cự phải giải quyết ở toà án và những người quyết liệt khiếu kiện giữ mảnh đất tạo ra nguồn sống cho dân làng đều là người dân lương thiện, là đảng viên đang sinh hoạt đảng, chưa ai là tội phạm bị truy tố. Chưa ai phải bị cưỡng chế bằng bạo lực nhà nước. Nhưng ỷ sức mạnh bạo lực nhà nước, công an mở ngay chiến dịch lớn đánh vào dân thôn Hoành, phá cửa xông vào tận giường ngủ, xả súng giết dân như xông vào đồn địch, như giết kẻ thù của dân tộc Việt Nam, của lịch sử Việt Nam!




Trang bị vũ khí hiện đại, chủ động đánh vào dân trong giấc ngủ mà ba sĩ quan công an hi sinh liền lập tức được truy tặng huân chương chiến công. Dân thôn Hoành đều là người dân lương thiện vì không ai là tội phạm bị truy tố. Đánh vào người dân lương thiện mà là chiến công là đã đẩy người dân lương thiện, cần cù lao động đóng thuế cho nhà nước trở thành kẻ thù của nhà nước!
Máu con người đều quí. Máu chiến sĩ công an, quân đội càng vô cùng cao quí. Nhân dân thầm lặng mà tinh tế, bao dung và công bằng. Nhân dân biết rõ và không quên từng sự hi sinh cho cuộc sống của nhân dân, đất nước. Những chiến sĩ công an, quân đội đổ máu hi sinh cho đời sống nhân dân, cho đời sống đất nước được nhân dân thương tiếc và biết ơn mới là sự phong tặng xứng đáng, cao quí và trường tồn.
P. Đ.T

1 nhận xét:

Nguyễn Anh Tuấn nói...

CON MỐI TRONG CHIẾC XÀ NHÀ
Nhà thám hiểm, dân tộc học Henri Maître (1883-1914) từng nhận định về những tổn hại từ sự can thiệp của người Kinh vào Tây Nguyên như sau:

"Họ không lúc nào ngừng khai thác; bằng cách ấy, họ lui tới không ngừng gây ô nhiễm cho các làng, ngày càng tiến sâu hơn vào nội địa, như những con mối trong chiếc xà nhà, chỉ để lại phía sau mình những chất thải thoái hóa, các sản phẩm bị rượu tàn hại, các bệnh truyền nhiễm và ách cai trị. Ở phía này, sự thâm nhập hòa bình của người An Nam còn tai hại cho người Mọi hơn các cuộc cướp phá của người Lào và người Cambodge; người Lào và người Cambodge chỉ làm lay chuyển và tỉa cành cái thân vẫn còn sống động của chủng tộc; còn người An Nam thì gặm dần và làm cho nó ruỗng nát tới tận lõi."

Đó là nhận định của vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, khi mà sự hiện diện của người Kinh ở Tây Nguyên hãy còn mờ nhạt, bởi ngoại trừ những phu đồn điền được tuyển mộ, người Kinh bị cấm lên Tây Nguyên lúc này.

Vậy thì, không biết Henri Maître sẽ phải thốt lên thế nào nếu chứng kiến những gì xảy ra từ sau 1975, khi chính quyền mới thực hiện chương trình di cư ồ ạt người Kinh lên Tây Nguyên, chiếm đoạt đất rừng của người bản địa cho cái gọi là nông lâm trường quốc doanh để theo đuổi ảo mộng kinh tế tập thể xã hội chủ nghĩa?

Rồi khi mô hình này phá sản trong cơn lốc kinh tế thị trường thì đất rừng được hô biến thành tài sản riêng của vô số các công ty sân sau cấu kết với quan chức chính quyền. Sau vài ba tờ giấy A4, người Thượng từ vị thế chủ nhân ông của núi rừng Tây Nguyên trở thành tá điền thời hiện đại, thuê đất đóng tô cho các công ty sân sau này.

Ở Tây Nguyên, đất và rừng là một. Mất đất là mất sinh kế và bị bần cùng hóa. Mất rừng lại là mất tâm linh vì người Thượng gửi tâm linh mình vào rừng. Vài chục năm sau 1975, người cộng sản nắm quyền đã làm được điều mà các vương triều Nguyễn, thực dân Pháp và Việt Nam Cộng Hòa cộng lại cũng không làm được: Tước đoạt cả sinh kế lẫn tâm linh của người bản địa.
Nhưng sinh lực của các sắc dân bản địa Tây Nguyên thật may vẫn chưa cạn kiệt. Đứng trước thử thách sinh tồn của căn tính, nhiều người trong số họ tìm thấy trong đức tin Ki-tô không chỉ sự bù đắp tâm linh, mà còn là chỗ dựa để tái tạo và củng cố một căn tính mới cho bản thân và cộng đồng mình - để trả lời cho câu hỏi người Thượng là ai.

Ít nhất về mặt tinh thần, nhiều người Thượng đã dứt khoát lựa chọn phương án hiện đại hóa theo đức tin Ki-tô với sự dẫn dắt của nhà thờ, hội thánh, thay vì combo 'cờ đảng, ảnh bác' mà chính quyền mới mong muốn nơi họ.

Một căn tính mới dựa trên đức tin Ki-tô đang được nuôi dưỡng và lớn mạnh trong cộng đồng các sắc dân bản địa chính là lý do khiến chính quyền phải trấn áp bằng mọi giá.
Bởi lẽ, hơn ai hết, họ hiểu rằng căn tính có sức hiệu triệu không gì địch nổi.
Chỉ những chính thể tôn trọng quyền con người mới có thể dung chứa và cổ vũ những cộng đồng bản địa xây dựng căn cước mới cho mình không chút hoài nghi, nhờ vào nguyên tắc tôn trọng và tôn vinh sự khác biệt nằm trong căn cốt. Trái lại, những chế độ toàn trị, không thấy gì ngoài kẻ thù tiềm ẩn của mình, sẽ bằng mọi giá giữ các cộng đồng bản địa trong hình ảnh mà họ muốn thấy - thường là dưới một bộ dạng nô lệ về vật chất và tinh thần vào chế độ.
Với những gì nhà cầm quyền đang làm hiện tại, không khó để đoán một ngày họ sẽ học theo Trung Cộng lập ra các trại lao cải trên Tây Nguyên, như những gì Bắc Kinh làm ở Tân Cương với người Duy Ngô Nhĩ, khi làn sóng phản kháng lên cao.

Chỉ xin lưu ý rằng, căn tính là thứ không thể bị đánh bại. Càng bị trấn áp, căn tính càng có sức hiệu triệu và kêu gọi những hành động tập thể để bảo vệ nó, cho đến khi nó được thừa nhận và tôn trọng.

Ngay cả khi người Kinh, đại diện bởi những nhà cầm quyền thiếu xứng đáng của họ, có thể "làm cho nó ruỗng nát tới tận lõi", như lời Henri Maître cách đây một thế kỷ.
Đến một ngày, nó sẽ tái sinh.