Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam là một đề tài vốn nhạy cảm, và cũng đã được
nhiều người tìm hiểu. Tuy nhiên chúng ta lại biết rất ít về CCRĐ ở Liên Xô.
Chúng tôi xin giới thiệu một đoạn trích trong tiểu thuyết “Những miền trái
chín” của Ephgêni Eptusencô, do nhà xuất bản Tác phẩm mới phát hành năm 1990,
để bạn đọc tham khảo.
Trích từ tiểu thuyết “Những miền trái chín” của
Ephgêni Eptusencô
… Chuyện xảy ra đã từ lâu lắm rồi. Bấy giờ một tốp
thanh niên cộng sản, trong đó có bác, được phái lên vùng thượng nguồn sông Lena
làm công tác tiêu diệt giai cấp phú nông ở trên đấy. Chàng trai Tisa (tức bác
Tikhôn bây giờ) lúc ấy chỉ là cậu công nhân tra dầu mỡ ở xí nghiệp đường sắt
tại nhà ga thị trấn Dima. Khi nhận công tác thanh toán giai cấp phú nông, anh
cảm thấy hãnh diện được trở thành đại diện cho giai cấp vô sản. Anh quên bẵng mất
mình vốn gốc rễ nông dân. Một cán bộ có cặp mắt sưng vù lên giọng nghiêm nghị
báo cho Tisa rằng đối với phú nông, sau khi phân loại sẽ phải phát vãng, không
cho họ được tiếp tục cư trú tại nơi cũ nữa. Do hoàn cảnh đặc biệt của miền Xibia, không thể phát vãng họ đi xa hơn được.
(chẳng lẽ lại đưa họ đến vùng trung tâm Radan hay Xmôlenxcơ?). Người ta đành
chỉ thay đổi nơi cư trú của họ trong phạm vi Xibia. Dọc triền sông Lena, bọn
phú nông ở hạ lưu được phát vãng lên vùng thượng lưu và ngược lại, bọn phú nông
ở thượng lưu được phát vãng xuống vùng hạ lưu. Họ được chở đi bằng sà - lan, có
người áp giải.
Khi đến nơi cư trú mới, họ phải kí giấy cam đoan
không được đi đâu khỏi khu vực quy định. Nhưng vì vẫn ôm hi vọng có ngày được
trở về bản quán, nên những kẻ bị phát vãng không thiết gì sinh cơ lập nghiệp ở
nơi cư trú mới. Cho nên nhiều phú nông ở hạ lưu đã chết và được chôn cất trên
thượng nguồn. Ngược lại nhiều phú nông ở thượng nguồn đã chết và được chôn cất
dưới hạ lưu. Cả hai trường hợp bọn họ đều nằm ở nghĩa trang bên cạnh tổ tiên
của người khác.
Trong toàn bộ cuộc đấu tranh giai cấp ấy, chàng trai
vô sản hai mươi tuổi đất Xibia là Tisa đã tham gia một cách tích cực. Khi ấy
anh còn là một thanh niên ngực nở, bụng thon, chiếc thắt lưng đeo vũ khí bó
chặt ngang người. Tuy tinh thần tiễu trừ phú nông lên rất cao, Tisa và đồng đội
không sao vét nỗi cho đủ số phú nông như cấp trên quy định. Tất nhiên có những
tên phú nông thực thụ. Chúng bóc lột bần cố nông tàn tệ. Những tên như thế,
Tisa không hề thương xót. Anh thấy rõ trừng trị chúng là cần thiết cho xã hội.
Nhưng những tên như vậy chỉ có rất ít. Trong những vùng ven sông Lena mà Tisa
đã đến, bất cứ người dân nào, khi cần, cũng có thể săn bắt, đánh cá hoặc đào
bới và đãi quặng. Hầu như không có ai là cố nông. Do đấy cũng không có mấy phú
nông. Trong việc tìm tòi, lùng kiếm phú nông, gay go nhất cho Tisa là thời gian
đội đến làng Têtêrêpca, một làng nhỏ xíu trên thượng nguồn sông Lena. Cả làng
chỉ có một trăm hai chục người dân và đau khổ thay, không có một phú nông nào.
Một cốt cán địa phương có tên là Xpirin, do quá tích
cực, tha thiết muốn được giúp đỡ đội công tác, đã cung cấp một đối tượng thích
hợp cho cuộc vận động thanh toán phú nông, đấy là tên Dalôghin. Nhưng Xpirin
làm việc này với một vẻ hằn học, khiến Tisa lại thấy khinh bỉ.
Ngôi nhà của Dalôghin ở bìa làng. Một dinh cơ khá
lớn. Khắp làng Têtêrêpca duy nhất có nhà này lợp tôn, lèo cửa sổ gỗ chạm trỗ
cầu kỳ, cánh cửa sổ sơn mầu xanh biếc và đục thành những hình quả tim. Sáu cửa
sổ trông ra đường làng thì đều có bầy trên bậu cửa những thùng sắt tây trồng
thiên trúc quỳ, hoa mầu hồng nhạt, những chiếc hộp từ thời trước cách mạng vốn
để đựng kẹo cứng. Tối đến các cánh cửa sổ đều được đóng lại và cài lại bằng
những cái chốt to và nặng. Hàng rào
quanh nhà được ken bằng những tấm ván thuyền với những lỗ cọc ván đều dặn. Cổng
rất rộng, hai bên là hai chiếc cột to, đầu đẽo thành hình bác giác, trông có vẻ
kiên cố, và chắc là làm anh cốt cán Xpirin ngứa mắt, vì nhà của anh ta chỉ là
một chiếc lều lụp xụp, mái dột và hàng rào chung quanh thì xiêu vẹo.
Hôm ấy, trong khi khảo sát đời sống của dân làng
Têtêrêpca, Tisa đến nhà Dalôghin. Mọi người đi vắng chỉ có mỗi cô con gái út
của ông già Xêvátchian tên là Đasa, cô đang nhào bột để làm mằn thắn, và cắt
bột bằng một chiếc cốc. Hai cánh tay cô dính đầy bột. Bột mì bám vào làm trắng
cả khoảng da vốn xạm nắng giữa hai bầu vú, ló ra sau chiếc cổ áo khoét rộng của
chiếc áo liền váy không tay. Cả đôi má đỏ ửng có lúm đồng tiền cũng được phủ
một lớp bột trắng. Cặp mắt cô gái Đasa xanh biếc, giống như hai hạt ngọc.
_ Anh vào đây
nhào bột làm bánh mằn thắn với em nào! – Đssa gọi giọng nghịch ngợm. – Hay là
các ông chỉ huy Hồng quân không biết làm bánh?
Theo quan niệm của Đasa, cái người thắt cái thắt
lưng to bản từ trên huyện cử xuống kia tất phải là một cán bộ chỉ huy đầy quyền
uy. Nhưng cô muốn tỏ ra không sợ anh ta.
_ Sao lại không biết? – Tisa mỉm cười, quay cái trục
cán, cầm cái cốc ấn mạnh vào thỏi bột, cắt thành một hình tròn khá đẹp. Anh bốc
một nhúm thịt đỏ tươi đặt lên làm nhân, dùng ngón tay bóp các cạnh lại. Tisa cố
làm đúng như mẹ anh đã dạy, để chiếc bánh có hình như chiếc tai trẻ con trong
suốt. Anh đưa chiếc bánh cho Đasa xem.
_ Thế này chứ gì?
_ Đúng. Nhưng cũng chưa thật đúng .. – Đasa cười phá
lên. Bột chưa mịn vì em đã cán kĩ đâu nào. Đến lúc hấp nhân sẽ lồi ra cho mà
xem.
_ Còn cô thì cả người lồ lộ ra hết … Tisa đối đáp
lại. Lúc ấy cô gái lại đứng đúng vào chỗ có nắng chiếu vào. Bụi bột và các thứ
bụi khác bay lượn khiến chiếc áo liền váy của Đasa lấp loáng, bập bềnh như một
vật sống. Và bên dưới cái ánh lấp loáng ấy, thân thể cô hiện ra thành một hình
màu sẫm lộ rõ những đường cong mềm mại.
Toàn thân Đasa toát lên mùi bột, mùi hành, mùi thịt
và cả một mùi hương của tuổi trẻ đang khao khát yêu đương. Tisa tin chắc vào ưu
thế của chiếc thắt lưng to bản anh đeo ngang người. Anh ôm ngang lưng cô gái,
định kéo lại sát mình, nhưng bị luôn một cái tát, nhẹ thôi nhưng đầy hàm ý.
_ Đi đâu mà vội vã thế, đồng chí chỉ huy Hồng quân?
… Đasa mỉm một nụ cười hiền hậu.
Vừa lúc ấy người cửa có tiếng chân người, tiếng cọ
đế ủng vào bậc thềm để bùn đất rơi ra, tiếng cười nói ồn ào. Đasa bước nhanh
đến sát Tisa, giật chiếc khăn quàng trên đầu cô ra, lau vội vết bột hình bàn
tay in trên má anh. Cái cử chỉ vội vã và vụng trộm ấy lập tức tạo nên mối quan
hệ đồng lõa giữa hai người.
Ông già Xêvátchian cùng với bà vợ, ba người con
trai, mấy cô con dâu bước vào. Theo sau là cả một lũ trẻ con. Và căn phòng, mới
lúc nãy còn rộng thênh thang bỗng trở nên chật chội. Họ vừa ở ngoài đồng về.
Đasa bèn gạt những chiếc bánh mằn thắn vào nồi nước trên bếp đang sôi sùng sục.
_ Tôi đến để điều tra … - trước những cặp mắt chờ
đợi của những người trong gia đình Dalôghin, Tisa thở dài nặng nhọc và vừa nói
vừa móc trong túi quần ngựa ra cuốn sổ có kẹp chiếc bút chì.
_ Đasa! Sao
con không mời khách ngồi? – ông già Xêvátchian cau mày mắng con gái. Chắc ông
đã nhìn thấy Tisa trong làng Têtêrêpca, vì cả làng chỉ có mỗi một xóm nhỏ, làm
sao không nhìn thấy được? Và ông cũng đã biết anh thanh niên này đến đay nhằm
mục đích gì rồi.
_ Xin mời cậu ngồi, - bà vợ ông già nói, giọng không
một chút niềm nở.
Dù sao Tisa
cũng là người địa phương, anh biết rằng tục lệ tiếp khách ở đây đầu tiên là hãy
đánh chén đã. Những chiếc bánh mằn thắn được múc trong nồi gang ra và được bày
vào một cái chậu to vẽ hoa đặt giữa bàn. Đasa cầm chai rót ra các cốc một thứ
rượu ngang trong vắt như sương móc.
_ Cụ nấu rượu này bằng gì?- Tisa buồn bã hỏi.
_ Bằng lúa mì cậu ạ, - ông già Xêvátchian đáp, -
dùng lúa mì thì rượu mới ngon thế này.
_ Nghĩa là cụ có cả ống ruột gà và các thiết bị khác
nữa chứ?- Tisa hỏi tiếp và nỗi buồn lúc nãy lại tăng thêm.
_ Đã đành là
phải có tất cả những thứ ấy rồi, - ông già Xêvátchian đáp vẻ tự hào, rồi đưa ngón tay nhót một chiếc bánh mằn
thắn đặt vào dưới chòm râu.
_ Cụ phải nộp
thôi, Tisa nói, nốc cạn cốc rượu và khoan khoái cảm thấy cổ họng hơi nóng lên.
_ Tôi sẽ nộp
nếu có lệnh của trên.
_ Có lệnh từ
lâu rồi, - Tisa nói và rót thêm cốc thứ hai.
_ Lệnh ở trên
về chúng tôi chậm lắm, phải một thời gian rất lâu mới về đến cái làng này. –
ông già Xêvátchian cau mày. - Dòng sông Lena này dài lắm. còn việc nộp lương
thực cho nhà nước thì cậu yên tâm. Đasa con đem giấy biên lai ra đây. Bố để sau
bức tượng thánh ấy.
Tisa xem kỹ những tờ biên lai. Đúng thủ tục cả,
không có gì có thể hoạnh họe được.
_ Ngày mai cụ
đem tất cả các thiết bị ra trụ sở ủy ban xã rồi nộp tiền phạt, - Tisa nói.
_ Nếu vậy thì
những nhà khác cũng phải đem chứ? – bà vợ nói chen vào.
_ Còn những
ai cũng có những thiết bị nấu rượu như thế này nữa? – Tisa nhất bút chì lên.
_ Dòng họ
Dalôghin chưa ai có thói đi tố giác người khác bao giờ, - ông già Xêvátchian
trừng mắt nhìn bà vợ, - cậu hãy tự đi điều tra từng nhà xem. Chứ chúng tôi sẽ
không mách gì thêm nữa đâu.
_ Gia súc của
cụ có bao nhiêu đầu con? – Tisa hỏi.
_ Ơn chúa có
ba ngựa và ba bò thôi.
_ Còn lợn và
cừu?
_ Mỗi thứ một
chục con. Có cả một con dê nữa, nếu cũng tính nó là gia súc.
_ Gà và ngỗng
thì bao nhiêu?
_ Đếm làm sao
nổi? Gia đình tôi đông con cháu, ở chung một nhà chật ních. Thỉnh thoảng cũng
làm bữa tươi cải thiện, cho nên gà trống gà mái cũng bớt đi. Với lại làng chúng
tôi đây chỉ có một xóm. Gà ngỗng các nhà cứ lẫn lộn với nhau hết. Có hôm nhà
tôi bắt một con ngỗng đem thịt mà chẳng biết có phải ngỗng của nhà mình không
hay của người láng giềng … ông già Xêvátchian chau mày.
_ Nhà cụ
phong lưu thật, - Tisa lấy đầu bút chì gãi gãi vào chỗ sau tai.
_ Chẳng lẽ
sống phong lưu lại không được hay sao? – ông già lạnh lùng nói. – Cũng chẳng
phải tôi được phong lưu như thế này từ thuở nhỏ đâu. Tôi cũng đã từng làm chân
chèo thuyền trên sông Lena, rồi làm công nhật cho người ta. Nhưng chính tôi lại
chưa hề thuê ai làm công cho tôi bao giờ! Tất cả những thứ tôi có trong cái nhà
này đều do hai bàn tay của tôi làm nên. Cậu nhìn bàn tay tôi đây này. Bánh mằn
thắn đang nóng còn bốc khói, ấy thế mà tôi vẫn cầm dược, không hề bị bỏng. Do
làm lụng cực nhọc nên da tay tôi đã dày cộm lên.
_ Thế trong
thời kì nội chiến, ông theo bên nào? – Tisa hỏi trong lòng thầm hy vọng.
_ Tôi không
theo bên nào cả. Già rồi. Hồi ấy tôi cũng đã ngoài sáu chục tuổi đầu rồi còn
gì.
_ Sao ông lại
bảo không theo bên nào? – bà cụ lại nói chen vào câu chuyện. – Ông quên rồi à?
Nhà mình chả đã giấu bộ đội Hồng quân bị thương là gì? …
_ Đấy là vì
họ bị thương. Vì mấy anh bị thương nên chúng tôi giúp đỡ chứ không phải vì họ
là bộ đội Hồng quân, - ông già nói giọng cáu kỉnh.
Khi Tisa về, cô gái Đasa chạy theo ra đến sân ngoài,
để giữ con chó vừa mới sổng ra. Cô đột nhiên nói khẽ vào tai anh:
_ Trưa mai
anh đến chỗ dốc Xiên nhé … em sẽ hái anh đào dại ở chỗ ấy …
Anh đào dại trên dốc Xiên thật đặc sắc! Cây nào cũng
trĩu những quả chín mọng màu đen sẫm. Mưa đêm làm chúng rụng xuống đầy mặt đất.
Chỉ cần bứt một chùm to, bỏ vào miệng, dùng lưỡi nhằn bỏ hột thì lập tức cả vòm
miệng phía trên bị một lớp keo ngọt lịm bít kín. Tisa vịn các cành xuống thấp
để Đasa hái quả được dễ dàng. Thỉnh thoảng cô gái lại rú lên một cách rất trẻ
con, khi những giọt nước mưa đêm qua còn đọng lại trên đám cành lá rơi xuống
người, chui vào cổ áo của chiếc áo liền váy không tay, rồi lăn xuống lưng, tạo
cảm giác nhột nhột. Chỉ một loáng hai giỏ đã đầy ắp.
_ Còn lẫn nhiều
lá quá! Đasa thở dài, - Đành phải nhặt ra vậy.
Bỗng nhiên cô bước đến sát Tisa, đặt hai tay lên vai
anh kéo lại. Cặp mắt xanh lục của Đasa
gần mắt anh đến nỗi, Tisa nhìn thấy trong mắt cô gái cả những tia máu
nhỏ xíu, giống như những đường gân trong đá ngọc xanh …
Rồi họ nằm xuống bên cạnh nhau, giữa hai cái giỏ đầy
ắp anh đào dại. Do lỡ tay, Tisa làm nghiêng một cái giỏ. Anh đào đổ tung tóe
lên giữa bộ ngực trần của Đasa, và Tisa đã đớp những quả anh đào nằm trên đó.
Đasa và anh còn gặp nhau nhiều lần nữa, khi ở trong
rừng anh đào dại, khi trong rừng sơn trà, và lúc chia tay nhau bao giờ họ cũng
về mỗi người một hướng để khỏi ai biết mối tình của họ.
_ Anh sẽ
không làm phiền gia đình của em chứ?- một hôm Đasa hỏi người yêu. – Phú nông gì
nhà em cơ chứ, phải không, anh Tisa?
Ngay lúc ấy
trong óc Tisa bỗng nảy ra một ý nghĩ tồi tệ: hay là lão Xêvátchian phái con gái
đến mua chuộc mình, để làm cho mình mất cảnh giác chăng? Dù sao lão ta cũng mắc
tội nấu rượu lậu mặc dù đã đập vỡ nồi cất và đã nộp tiền phạt. Nhưng liệu lão
ta có giấu một cái nồi khác nữa không? Với lại tuy lão ta không thuê người làm
công nhưng so với người khác, lão rất giầu. Tisa cố gạt đi mối nghi kỵ về Đasa,
nhưng thỉnh thoảng nó lại trỗi dậy: vì đấy là một ý nghĩ tiện lợi.
Tisa được người thủ trưởng có cặp mắt sưng tấy gọi
lên huyện. Anh ta không tiếc lời phê phán thái độ nhân nhượng của Tisa với các
phần tử phú nông. Vừa nó, anh ta vừa gõ báng khẩu súng lục lên mặt chiếc bàn gỗ
hồng sắc tịch thu được ở đâu đó. Mặt bàn đầy vết sức sẹo, chắc do anh ta gõ
báng súng lên nhiều quá.
_ Chúng tôi
không đòi hỏi cậu phải làm gì nhiều, mà chỉ yêu cầu cậu thực hiện đầy đủ những
điều đã quy định. Ở làng Xưtsôpca cậu có tìm ra được phú nông không? Có chứ gì?
Rồi ở Krutơgorie nữa? Có chứ gì? Vậy tại sao ở làng Têtêrêpca này cậu lại không
tìm ra được? Chẳng lẽ ở đây lại không có phú nông? Chẳng lẽ Têtêrêpca lại là
một thiên đường một xã hội không giai cấp? Cậu phải mở to mắt ra … Cậu đã ở đây
một tháng trời. Hay là cuộc sống ở đấy đã làm cậu rã rời?
Người thủ trưởng luôn miệng ho do hút thuốc lá liên
tục. Anh ta kéo bình nước lại gần định rót, nhưng bỗng nhiên anh ta chững người
lại: cái bình rỗng không và bên trong, một con ruồi đang vo ve, đập cánh vào
bình thủy tinh. Người thủ trưởng nổi khùng lên với Tisa, vì anh đã chứng kiến
sự bất lực của cấp trên dù chỉ trong một việc hết sức nhỏ. Người thủ trưởng cau
có hỏi:
_ Hay chính
cậu là dòng dõi phú nông? Phải kiểm tra cậu mới được.
Vào thời kì ấy, một câu nói kiểu như vậy là một lời
đe dọa khủng khiếp. Sau cuộc tẩy não ấy, về đến Têtêrêpca, Tisa vội vã họp với
hai cốt cán địa phương. Cốt cán thứ nhất là Êrughin. Anh đã từng là đội viên du
kích đỏ và hiện nay là một trong những người nghèo nhất làng, do anh bị cụt một
chân và lại dộc thân. Tuy nhiên cái nghèo không làm anh hằn học, ghen ghét với
những người khá giả hơn, như thường thấy ở những kẻ nghèo do lười biếng chứ
không phải do hoàn cảnh rủi ro. Cốt cán thứ hai là Xpirin, chính thuộc loại
người mà trong đáy lòng luôn có một nỗi ghen ghét với những ai giầu hơn. Anh
cũng là thương binh trong cuộc nội chiến. Một viên đạn xuyên qua cánh tay trái,
khiến cho các ngón tay bên trái không co duỗi được nữa. Có người nói, chính anh
đã tự bắn vào mình. Anh theo Hồng quân, nhưng chỉ mới tham gia được ít bữa, anh
đã bị thương. Khi chính quyền Xô-viết thắng lợi, anh lập tức ưỡn ngực lên,
khiến người ta tưởng như tên tướng Bạch vệ Côntsắc bị đập tan chính do công lao
của anh, của Xpirin vậy. Bao quanh một lũ con đông đúc, đứa lớn chỉ cao hơn đứa
bé một ngón tay, với một chị vợ lúc nào cũng bụng to, quần áo quanh năm xốc
xếch, Xpirin luôn luôn cáu kỉnh. Anh ta oán giận cuộc đời đã không ban cho anh
những thứ anh thèm muốn.
Tisa đặt lên bàn bản danh sách dân làng Têtêrêpca
rồi nói giọng buồn bã nhưng kiên quyết:
_ Nào, ta hãy
cố tìm xem ai là phú nông.
(Còn tiếp)
Trích từ tiểu
thuyết “Những miền trái chín” của Ephgêni Eptusencô
Nhà xuất bản Tác phẩm mới - Hà Nội. năm 1990.
Chuyển ngữ: Vũ Đình Phòng
Cải cách ruộng đất ở Việt Nam
Cải cách ruộng đất ở Việt Nam
Lần
đầu tiên một đề tài vốn nhạy cảm trở thành chủ đề triển lãm được khai mạc hôm
8/9 tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia ở Hà Nội về "Cải cách ruộng đất 1946 -1957".
Theo thông cáo báo chí của
Bảo tàng thì mục đích của triển lãm là "Nhằm giúp công chúng tiếp cận với
những tài liệu, hiện vật gốc và có cách nhìn thực tiễn, khoa học, khách quan về
cuộc vận động cách mạng ruộng đất trong tiến trình lịch sử dân tộc" trong
giai đoạn 1946-1957 nhân 69 năm ngày Việt Nam độc lập và kỷ niệm 60 năm
"cuộc vận động cách mạng cải cách ruộng đất".
Trả lời BBC Việt Ngữ, ông
Nguyễn Văn Cường, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, cho biết chủ đề triển lãm
nói về những thành quả của cải cách ruộng đất như "mang lại tư liệu sản
xuất cho người lao động" theo khẩu hiệu "người cày có ruộng".
Ông cũng cho biết tại triển
lãm này còn có cả những tư liệu về những sai lầm và sửa sai liên quan chiến
dịch cải cách ruộng đất của giới lãnh đạo Việt Nam.
Cải
cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam là
chương trình nhằm xóa bỏ văn hóa phong kiến,
tiêu diệt các thành phần bị xem là "bóc lột", "phản quốc"
(theo Pháp, chống lại đất nước), "phản động" (chống lại chính quyền)
như địa chủ, Việt gian, cường hào, các đảng đối lập... được Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện vào những năm 1953–1956. Cải cách ruộng đất
tịch thu tài sản, đất đai của những người này và chia cho bần nông, cố nông;
đồng thời tiến hành đấu tố và xử tội họ. Cải cách ruộng đất đi kèm với phong
trào chỉnh đốn Đảng lúc đó.
Đây
là một trong những phương cách chính yếu mà những người theo chủ nghĩa cộng sản nghĩ rằng phải thực hiện để lập lại
công bằng xã hội, đồng thời thiết lập nền chuyên chính vô sản nhằm tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng. Dựa theo mô hình
"thổ địa cải cách" của Trung Quốc (1946–1949), cuộc cải cách ruộng
đất ở miền Bắc được tổ chức với tinh thần đấu tranh giai cấp triệt để với sự cố
vấn trực tiếp của các cán bộ đến từ Trung Quốc.
Chiến dịch càng lên cao điểm
càng mất kiểm soát dẫn đến tình trạng vô chính phủ, nhiều oan sai và cô lập, đối
xử nhục hình với gia đình người bị đấu tố. Hơn 70% người bị quy vào thành phần
địa chủ và phú nông là quy sai. Điển hình như:
Trường hợp tử hình bà Nguyễn Thị Năm, chủ hiệu Cát Thanh Long ở Hà Nội,
mẹ nuôi của Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh, có con trai một là trung đoàn trưởng
một trung đoàn của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong "Tuần
Lễ Vàng", gia đình bà cũng đã hiến 100 lạng vàng cho chính quyền mới thành
lập.
Sau 3 năm tiến hành, cuộc
cải cách đã phân chia lại ruộng đất công bằng cho đa số nông dân miền Bắc, xóa
bỏ giai cấp địa chủ phong kiến. Tuy nhiên, việc áp đặt giáo điều các biện pháp
dập khuôn từ cải cách ruộng đất của Trung Quốc đã gây ra nhiều phương hại và
tổn thất. Cuộc cải cách và đấu tố này đã gây ra
không khí căng thẳng tại nông thôn miền Bắc lúc ấy, gây tác hại đến sự đoàn kết
dân tộc của người Việt, ảnh hưởng tới niềm tin của một số tầng lớp nhân dân với Đảng Lao Động Việt Nam. Suốt 1 năm sau đó,
chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phải tổ chức chiến dịch nhận khuyết
điểm và sửa sai, phục hồi danh dự và tài sản cho các trường hợp oan sai, cũng
như cách chức nhiều cán bộ cấp cao chịu trách nhiệm về những sai lầm này.
Tổng số cán bộ, đảng viên bị xử lý, sau
khi chỉnh đốn là 84.000 người, chiếm tỷ lệ hơn 55%. Nhiều chi bộ tốt bị coi là
chi bộ phản động, bí thư hoặc chi ủy viên chịu hình phạt nặng nề: tù hoặc bắn.
Tình hình chỉnh đốn ở cấp huyện và cấp tỉnh cũng rất bi đát. Số cán bộ lãnh đạo
các cấp này bị xử lý oan sai cũng chiếm tỷ lệ lớn. Hà Tĩnh là tỉnh cá biệt, có
19 cán bộ tỉnh ủy viên, công an, huyện đội dự chỉnh đốn đều bị xử lý.
Tổng cộng chiến dịch Cải cách ruộng đất tịch thu của địa chủ 810.000
ha ruộng, 106.448 trâu bò, 1.846.000 nông cụ, 148.565 ngôi nhà. Số tài sản này
được phân chia cho 2.104.138 hộ bần nông, trung bình mỗi hộ được 0,38 ha.
Số lượng
người bị giết trong chương trình Cái cách ruộng đất là không thể thống kê chính
xác và còn gây tranh cãi. Nhưng theo chủ trương ở một số địa phương phải tìm
cho ra tỷ lệ 5,68% địa chủ, "Việt gian" để mang ra đấu tố thì con số sẽ không ít.
Tuy nhiên,
ở một góc độ khác việc thực hiện cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam đã gây
ra nhiều hậu quả vô cùng to lớn. Đã có rất nhiều người bị đấu tố oan. Mức 5,68% địa chủ
trong dân số địa phương là cao hơn rất nhiều so với thực tế. Tổng số người bị
quy trong Cải cách ruộng đất đã được thống kê là 172.008 người; số người bị oan
sai là 123.266 người, chiếm tỷ lệ 71,66%. Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt
Nam, nhiều nông dân trong tầng lớp trung nông đã bị đấu tố là địa chủ và việc
đấu tố oan là do "bị địch lũng đoạn". Những sai lầm này, như đã được
đề cập đến trong bài phát biểu tháng 10 năm 1956 tại Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của giáo sư, luật sư Nguyễn Mạnh Tường, đã
làm Đảng Cộng sản Việt Nam bị mất uy tín đối với nhiều người dân.
Tham khảo Videoclip: Cải cách ruộng đất ở Việt Nam:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét