Nguyễn
Đình Đăng
Hồi còn là sinh viên năm
thứ nhất (1976 – 1977) tại Đại học Tổng hợp Quốc gia Maxcơva [1], một lần ngay trong
giảng đường vào giờ nghỉ, chúng tôi được yêu cầu khai lý lịch để nộp cho giáo
vụ trường. Đến mục thành phần giai cấp của gia đình, tôi viết “trí thức” (интеллигенция), lại còn
“trầm trọng” ghi chú “cha:
thầy giáo, mẹ: bác sĩ” (отец
– учителъ, мать – врач). Petya, cậu bạn Nga của tôi, thấy vậy bảo:
“Ê, tiểu tư sản! Xoá đi
mày! Ghi như tất cả chúng tao đây này: рабочий (lao động, công nhân).”
Thấy tôi có vẻ băn khoăn, cậu ta giải thích: “Chúng tao gọi thầy giáo và bác sĩ là những người lao
động trí óc (работники умственного труда).”
*
Phải nói thẳng một cách
sòng phẳng như thế này. Trong lịch sử nhân loại chưa có một chế độ độc tài nào
lại tôn trọng trí thức. Độc tài và trí thức không khác gì lửa và nước. Tần Thủy
Hoàng từng ra lệnh đốt Kinh Thi và Kinh Thư, chôn sống hơn 460 Nho sĩ. Sa Hoàng
Nikolai Đệ Nhị từng căm ghét trí thức đến nỗi muốn loại bỏ từ “trí thức” khỏi
từ vựng của tiếng Nga: “Trí
thức là một từ ghê tởm,” ông ta nói. Nhà độc tài kế tiếp ông, lãnh
tụ cộng sản Lenin còn tiến một bước xa hơn khi đã không ngần ngại sử dụng một
trong những từ thiếu sạch sẽ nhất để gán cho trí thức: Lenin
gọi trí thức là cứt. Trong thư gửi Maxim Gorky ngày 15/9/1919,
Lenin viết: “Các lực
lượng trí tuệ của công nông đang trưởng thành vững mạnh trong cuộc đấu tranh
lật đổ tư sản và bọn đồng lõa, lũ trí thức – đầy tớ của tư bản, những kẻ tưởng
mình là bộ não của quốc gia. Trên thực tế, bọn chúng không phải là bộ não mà là
cứt.” [2].
Khác với từ intellectuals trong tiếng Anh, thường được dùng chủ
yếu để chỉ những người có nghề nghiệp chuyên môn trong các lĩnh vực lao động
trí tuệ nhằm phân biệt họ với những người lao động chân tay, khái niệm trí thức (интеллигенция) trong tiếng Nga được dùng cho tầng lớp
của những người không đơn thuần chỉ có học và lao động trí óc, mà còn phải có
tư duy phê phán, phải gánh vác những lý tưởng cao cả. Các tính năng chính của
trí thức Nga trước cách mạng tháng 10 mang đặc thù của những cứu tinh trong xã
hội, bao gồm: 1) sự quan tâm tới số phận của đất nước (trách nhiệm dân sự), 2)
thái độ và hành động hướng tới phê bình xã hội, tới cuộc đấu tranh với tất cả
những gì cản trở sự phát triển quốc gia (vai trò của những người gánh vác lương
tâm xã hội), và 3) khả năng đồng cảm với những ai “bị xúc phạm và bị xỉ nhục”
(cảm giác đồng cảm về đạo đức).
Vốn có truyền thống tự
chịu trách nhiệm về tương lai của đất nước như vậy, nên một số trí thức Nga đã
có ảo tưởng ngây thơ rằng họ có thể hợp tác với chính thể độc tài, thuyết phục
những người cầm đầu cải tổ theo chiều hướng tự do dân chủ. Họ chưa bao giờ
thành công. Sau cách mạng tháng 10 Nga, các văn hào như Maxim Gorky và Vladimir
Korolenko đã đích thân tới gặp Lenin với hy vọng thuyết phục ông ngừng khủng
bố, nhưng họ đã thất bại.
Những người cầm đầu trong
bộ máy quyền lực của chính thể cộng sản đã không bao giờ tha thứ thái độ “phản
động” hay “phản cách mạng” của giới trí thức và đã nhanh chóng đàn áp họ. Thi
sĩ nổi tiếng Nikolai Gumilev là nạn nhân đầu tiên. Năm 1921 ông đã bị buộc tội
âm mưu chống lại chế độ Xô Viết và đã bị xử bắn. Cuộc đàn áp trí thức của chính
quyền Xô Viết đã đẩy hàng loạt trí thức Nga di tản ra nước ngoài sau cách mạng
tháng 10. Những đại diện xuất sắc của giới trí thức Nga thời đó, kể cả các
triết gia và các văn hào lớn như Nikolai Berdyaev [3] –
chủ bút tờ Vekhi (Вехи:
Những cột mốc), cũng bị chính quyền trục xuất ra khỏi đất nước vào cuối năm
1922. Sự đàn áp này còn tiếp tục cho tới khi Liên Xô tan rã vào năm 1991, với
nhiều văn nghệ sĩ và trí thức bị tống giam, trục xuất, đày ải, trong đó có những
cá nhân kiệt xuất như nhà vật lý Lev Landau (Nobel vật lý năm 1962, bị bắt giam
1 năm trong đợt thanh trừng 1936 – 1938), nhà thơ Iosif Brodsky (Nobel văn
chương năm 1987, bị trục xuất năm 1972), nhà văn Alexandr Solzhenitsyn (Nobel
văn chương năm 1970, bị bắt giam 11 năm tù 1945 – 1956, bị trục xuất năm 1974),
nhà vật lý Andrei Sakharov (Nobel hoà bình năm 1975, bị bắt và bị quản thúc 6
năm 1980 – 1986), v.v.
Dưới chính thể cộng sản,
Đảng cộng sản cai trị toàn xã hội, không cho phép bất cứ đảng phái đối lập nào
khác tồn tại, chưa nói cạnh tranh quyền lực, và thẳng tay trừng trị mọi tư
tưởng khác quan điểm do đảng áp đặt, chứ chưa nói tới hành động, mà những người
cộng sản cho rằng có thể đe doạ địa vị thống trị của họ. Chỉ riêng chế độ
Stalin – người kế thừa Lenin – đã hành quyết và đầy ải đến chết hơn 20 triệu
người [4], gấp đôi số nạn nhân đã
chết trong các lò thiêu người và trại tập trung của phát-xít Hitler. Chính thể
cộng sản quả thật là chính thể độc tài tàn bạo nhất trong thế kỷ thứ 20.
*
Bài học đau xót của trí
thức dưới chính thể cộng sản đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã được lặp lại
tại Việt Nam. Vào năm 1956, khi một số văn nghệ sĩ, luật sư, triết gia, bác sĩ,
nhà giáo tại Hà Nội như Hoàng Cầm, Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Phan
Khôi, Tử Phác, Phùng Quán, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, v.v.
lên tiếng đề nghị Đảng cộng sản (lúc đó lấy tên là Đảng Lao Động Việt Nam) tôn
trọng tự do sáng tạo, hành xử theo luật pháp v.v., họ đã bị đàn áp thẳng tay
trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp tư
bản tư doanh và vụ Nhân Văn Giai Phẩm là những đòn trí mạng giáng vào giới trí
thức Việt Nam, và kết quả là đã “đào tận gốc trốc tận rễ” tầng lớp này trên
miền Bắc. Còn sau năm 1975, Việt Nam là đất nước đã sinh ra cuộc di tản khổng
lồ bằng thuyền khủng khiếp nhất trong lịch sử hiện đại [5] với
hơn 1.6 triệu người bỏ quê hương di tản ra ngoại quốc, trong đó có hàng ngàn
trí thức miền Nam [6].
Trên thực tế, nếu hiểu
giới trí thức như khái niệm интеллигенция, thì Việt
Nam từ đó không còn giới trí thức nữa. Thay vào đó, cụm từ “trí thức xã hội chủ nghĩa (XHCN)”
đã ra đời tại miền Bắc XHCN, và sau đó cụm từ này đã chết yểu. Nó cũng tương tự
như việc thay thế chủ nghĩa hiện thực trong văn học nghệ thuật bằng “hiện thực XHCN” tại
Liên Xô trước đây mà nhiều nước trong khối cộng sản đã bắt chước. “Hiện thực
XHCN” đã hoàn toàn phá sản sau khi Liên Xô sụp đổ. Câu chuyện tiếu lâm dưới
đây, mà tôi từng được nghe trong thời sinh viên tại Liên Xô, đã nêu rõ thực
chất của thứ “hiện thực” này.
Thành Cát Tư Hãn sau khi
chinh phạt thế giới, đã trở thành bá chủ một đế quốc mênh mông trải dài từ bờ
biển Đông tới lưu vực sông Danube. Tuy nhiên, trong một lần chinh chiến, ông
ta đã bị mất một mắt. Có lần vị hoàng đế nhà Nguyên này ban lệnh tìm
hoạ sĩ giỏi để vẽ chân dung cho mình. Hoạ sĩ thứ nhất được tiến cử tới yết kiến
Thành Cát Tư Hãn, và đã vẽ hoàng đế nhà Nguyên với đầy đủ cả hai mắt tinh. Sau
khi bức tranh được hoàn thành và được đem trình hoàng đế xem, Thành Cát Tư Hãn
khinh bỉ nói: “Sao lại có
cái thứ lãng mạn chủ nghĩa đồi bại thế này?”, rồi ra lệnh chém đầu
hoạ sĩ. Hoạ sĩ thứ hai được vời tới. Rút kinh nghiệm thảm khốc từ hoạ sĩ trước,
hoạ sĩ này đã vẽ Thành Cát Tư Hãn giống y như thực, tức là với một mắt tinh và
một mắt chột. Thành Cát Tư Hãn liếc nhình bức tranh rồi phán: “Tự nhiên chủ nghĩa tục tằn!”
Hoạ sĩ thứ hai cũng bị bay đầu. Hoạ sĩ thứ ba đã vẽ chân dung Thành Cát Tư Hãn
en profil (chân dung nhìn nghiêng), chỉ thấy con mắt tinh, còn con mắt chột được
che khuất trong nửa không nhìn thấy của khuôn mặt. Hoàng đế nhà Nguyên xem
tranh và khen: “Đây mới
thực sự là hiện thực xã hội chủ nghĩa!”, rồi truyền ban thưởng cho
hoạ sĩ.
Trong tác phẩm “Trí thức và vai trò của nó trong
quá trình văn hoá”, Vitaly Tepikin đã tổng hợp và đề xuất 10 dấu
hiệu của giới trí thức hiện đại là [7]
1 – có lý tưởng đi trước
thời đại, nhạy cảm với người xung quanh, lịch sự nhũn nhặn trong biểu hiện;
2 – tích cực lao động trí
óc và liên tục tự học;
3 – ái quốc dựa trên niềm
tin vào nhân dân và có tình yêu quê hương sâu sắc;
4 – sáng tạo không mệt
mỏi và có lối sống giản dị đến khổ hạnh;
5 – độc lập, có khát vọng
đạt tới tự do biểu hiện, và tìm thấy mình trong khát vọng đó;
6 – có quan hệ phê
phán đối với chính quyền, lên án mọi biểu hiện của bất công, vô nhân đạo, phản
nhân văn, phản dân chủ;
7- trung thành với
niềm tin do lương tâm mình mách bảo, ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất,
kể cả phải hy sinh quyền lợi bản thân;
8 – nhận thức thực tế một
cách mơ hồ, dẫn đến dao động về chính trị và đôi khi có biểu hiện bảo thủ;
9 – Có niềm oán hận lớn
trước những gì không thực hiện được trên thực tế hoặc trong tưởng tượng, kết
quả là đôi khi trở nên hoàn toàn khép kín tự cô lập mình;
10 – Các nhà hoạt động
chuyên môn trong các lĩnh vực khác nhau, và ngay cả trong cùng một lĩnh vực,
thường hiểu lầm nhau, hậu quả là đôi khi nổi cơn ích kỷ hoặc bốc đồng.
Tepikin cho rằng một cá
nhân có ít nhất một nửa số dấu hiệu trên đây có thể được gọi là “trí thức theo nghĩa đại khái của từ
đó”. Chuyển sang ngôn ngữ Việt Nam đương đại, có thể tạm gọi những
người thoả mãn 5/10 biểu hiện nêu trên là các “trí thức dự khuyết”.
Trong giới những người
(thực sự) có học vấn của Việt Nam, đại đa số chắc hội đủ ba dấu hiệu cuối (8 –
10). Những người khoa bảng mà lúc đầu từng hoạt động chuyên môn nhưng sau bỏ để
ra làm quan thì khó có thể giữ được các dấu hiệu 2, 4 – 10, nếu không nói rằng
hai dấu hiệu còn lại (1 và 3) đối với những người này không phải lúc nào
cũng đáng tin cậy.
*
Tương truyền, trong một
lần thuyết giảng, triết gia cổ Hy Lạp Plato đã định nghĩa “con người là một động vật đi bằng
hai chân và không có lông vũ.” Diogenes – một triết gia cổ Hy Lạp
khác – nghe vậy bèn bắt một con gà, vặt sạch lông, thả vào giảng đường,
rồi nói: “Các người hãy
nhìn kìa, đó là Con Người theo định nghĩa của Plato!” Nghe nói
Plato sau đó đã phải thêm “có
móng rộng và bẹt” vào định nghĩa “Con Người” của mình.
Gẩn đây có một vài ý kiến
của một số “Plato Việt Nam” muốn xác định lại các tiêu chí thế nào là trí thức.
Ngay lập tức họ được các “Diogenes Việt Nam” lên tiếng sửa gáy. Đội quân các
“Diogenes Việt Nam” rất hùng hậu, có tới cả ngàn. Thay vì sống trong thùng tô
nô, họ sống trong các blog. Họ cũng không xách đèn đi tìm người lương thiện
giữa ban ngày [8], bởi dường như đã biết
trước câu trả lời. Họ lại càng không có cơ hội để làm như Diogenes khi gặp
Alexander Đại Đế. Theo sử gia Plutarch, khi Alexander Đại Đế tới Corinth, những
người đứng đầu thành phố và các triết gia đã lũ lượt kéo nhau tới yết kiến
Alexander, chỉ riêng Diogenes vắng mặt. Alexander bèn đích thân đi tìm
Diogenes, và thấy ông này đang nằm dài sưởi nắng bên cái thùng ông dùng làm chỗ
ngủ. Khi Alexander Đại Đế hỏi: “Hỡi
nhà hiền triết, ngươi có muốn ta làm gì giúp ngươi không?”,
Diogenes đã trả lời: “Ngài
hãy đứng tránh sang một bên để khỏi che lấp ánh mặt trời của tôi.”
Các triết gia và đám tùy tùng của Alexander Đại Đế nghe vậy cười phá lên, trong
khi chính Alexander Đại Đế nói: “Nếu
ta không phải là Alexander thì ta đã là Diogenes.”
Tới đây tôi chợt nhớ tới
ca từ trong một bài hát của nhóm hip hop Dead Brez:
Bạn
muốn có một chiếc Lexus hay Công Lý?
Một
ước mơ hay của cải?
Ca từ này đúng hơn bao
giờ hết tại Việt Nam đương đại. Rõ ràng bạn không thể vừa được người ta cấp xe
sang (hay tặng nhà to) lại vừa có Tự Do (hay Công Lý). Bạn chỉ có thể chọn một
trong hai thứ đó. Lập luận rằng cưỡi xe BMW mới tiến được hoặc tiến nhanh hơn
tới Công Lý (hay Tự Do) là ngụy biện, tự dối mình và lừa dối người khác. Đặc
biệt, nếu bạn là một người lao động trí óc theo một chuyên môn nào đó, việc bạn
chọn cái gì sẽ tự động xếp bạn vào hàng ngũ những “trí thức dự khuyết”, hay vào
đám học giả xu thời đang ngày càng lạm phát trên đất nước này.
Tokyo,
25/1/2012
[1] Tên
đầy đủ Đại học Tổng hợp Quốc gia Maxcơva mang tên M.V. Lomonosov (Московский
Государственный Университет имени М.В. Ломоносова), viết tắt là MGU (МГУ).
[2] Nguyên
văn tiếng Nga: “Интеллектуальные
силы рабочих и крестьян растут и крепнут в борьбе за свержение буржуазии и ее
пособников, интеллигентиков, лакеев капитала, мнящих себя мозгом нации. На деле это не мозг, а говно”. Trích từ V.I. Lenin, Thư gửi
A.M. Gorky ngày 15/9/1919, Toàn tập, Tái bản lần thứ 5, NXB Văn học Chính trị,
1978, tập 51, trang 48-49 (В.И. Ленин, Из письма А.М. Горькому от 15
сентября 1919 года, Полное собрание сочинений, издание
пятое Изд-во политической литературы, 1978 г. т. 51, стр. 48-49) (Xem bản tiếng
Anh tại đây, tiếng Việt tại đây)
[3] Nikolai
Alexandrovich Berdyaev (Николaй Алексaндрович Бердяев) (1874 – 1948) –
triết gia Nga; thời Sa Hoàng, do tham gia nhóm Marxist nên từng bị bắt năm 20
tuổi và bị đày biệt xứ; năm 29 tuổi do chỉ trích Nhà Thờ Chính thống Nga nên bị
kết tội báng bổ và bị đày đi Siberia; dưới thời Xô Viết do không chịu chấp nhận
chính thể của đảng Bolshevik áp đặt sự thống trị của nhà nước độc tài lên tự do
cá nhân, nên đã bị chính quyền Xô Viết trục xuất cùng hơn 160 nhà văn và học
giả danh tiếng khác sang Đức bằng tàu thủy vào tháng 9/1922 (từ một danh sách
gồm 280 người bị bắt trong đó có 32 sinh viên).
[5] Theo
báo cáo của Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn, 1/3 số thuyền nhân (boat
people) Việt Nam đã chết trên biển vì bị giết, bão, bệnh tật, đói. Thống kê của Cao ủy này cho
biết chỉ riêng năm 1981 có 15095 thuyền nhân Việt Nam đã vượt biên từ
Việt Nam tới được Thái Lan trên 455 thuyền. Trong số đó có 352 thuyền (77%) bị
bọn hải tặc tấn công. Số vụ tấn công là 1149 tức trung bình mỗi chiếc thuyền bị
hải tặc tấn công hơn 3 lần. 571 người Việt Nam đã bị hải tặc giết. 599 phụ nữ
Việt Nam đã bị hải tặc hãm hiếp. 243 người Việt Nam đã bị bắt cóc.
[6] Postwar Vietnam:
Dynamics of a transforming society,
Ed. Hy V. Luong, (Rowman & Littlefield Publishers Inc., 2003).
[7] Виталий
Тепикин, Интеллигенция, ее роль в культурном процессе.
Vitaly Tepikin là tiến sĩ lịch sử, chuyên gia về lý thuyết và lịch sử trí thức,
giáo sư thuộc viện Tri thức khoa học tự nhiên Nga (Российская академия естествознания).
[8] Diogenes
từng xách đèn đi ngoài phố giữa ban ngày. Khi được hỏi làm gì đấy, ông trả lời:
“Tôi đi tìm một người
lương thiện.” Tương truyền ông chỉ gặp toàn bọn bất lương và vô
lại.
[9] Nguyên
văn: You would rather have a Lexus or Justice? A dream or some substance? A Beamer, a
necklace or Freedom?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét