Quyền
giả định vô tội đưa ra những đòi hỏi nào liên quan đến việc đảm bảo quyền này
trên các phương tiện thông tin đại chúng?
Tìm sự thật không đơn giản
Chỉ sau vài ngày, cơ quan điều tra đã
thu thập được những chứng cứ để có thể kết luận rằng Nguyễn Hải Dương và Vũ Văn
Tiến là hai nghi can thực hiện hành giết 6 người và cướp tài sản tại Bình
Phước. Với tư cách một công dân, tôi rất hy vọng đây là một vụ đúng người đúng
tội và công lý sẽ được thực thi.
Dựa vào những thông tin mà cơ quan
điều tra cung cấp cho báo chí cho đến nay, hẳn đa số người dân tin rằng hai bị
can Dương và Tiến phạm tội và phải chịu án tử hình. Và có lẽ trong thời gian
tới, nếu không có gì bất thường xảy ra, lực lượng cảnh sát điều tra sẽ công bố
kết luận điều tra để khẳng định điều đó.
Tuy
nhiên, bình tĩnh suy xét, chúng ta sẽ thấy, nếu việc đi tìm sự thật khách quan
của các vụ án hình sự là đơn giản, có lẽ thế giới văn minh đã không cần giai
đoạn truy tố và xét xử. Theo đó, sau khi điều tra, bị can sẽ bị thi hành án
ngay lập tức. Trái lại, vì cuộc sống vốn phức tạp, quá trình điều tra vẫn chỉ
là giai đoạn ban đầu nhằm đi tìm sự thật khách quan của vụ án. Trong cuốn tiểu
thuyết nổi tiếng của Agatha Christie “Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông”, chúng ta thấy một vụ giết người đã
được lý giải với nhiều cách khác nhau và cách giải thích nào cũng thuyết phục.
Dưới góc độ pháp lý, một lần nữa cần
phải nhấn mạnh, theo luật quốc tế và Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành
của Việt Nam, quyền được giả định vô tội (ở
đây người viết dùng thuật ngữ “giả định vô tội” thay vì “suy đoán vô tội” - vốn
được dùng phổ biến, với những lý do đã được đề cập trong một bài viết khác) của bị can,
bị cáo trong vụ án này cần được đảm bảo. Một khi chưa có bản án của tòa án có
hiệu lực pháp luật khẳng định bị cáo phạm tội, các nghi phạm vẫn phải được
hưởng quyền giả định vô tội.
Sự cẩn trọng trên truyền thông
Vậy, quyền giả định vô tội đưa ra
những đòi hỏi nào liên quan đến vụ án “thảm sát” này? Trong số nhiều yêu cầu cụ
thể, bài viết này tập trung vào việc đảm bảo quyền giả định vô tội trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
Tất cả các cơ quan tiến hành tố tụng
(cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án) phải giả định rằng bị can, bị cáo vô
tội cho đến khi tòa án bị thuyết phục rằng chắc chắn bị can, bị cáo đã thực
hiện hành vi phạm tội (thể hiện qua việc bản án của tòa án có hiệu lực pháp
luật). Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp 2013 tuyên bố: “Người bị buộc tội được coi là
không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án
kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Cần lưu ý, nguyên tắc “giả định vô
tội” có nghĩa là là, người bị cáo buộc thực hiện một tội phạm được coi(được giả
định) là không có tội cho đến khi cơ quan công tố thuyết phục được tòa án rằng
bị cáo đã phạm tội. Quyền này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải coi (giả
định) bị can, bị cáo không phạm tội, mặc dù cơ quan chức năng có thể tin (suy
đoán) rằng bị can, bị cáo phạm tội. Như vậy, dựa trên những chứng cứ thu thập
được, cơ quan chức năng có cơ sở để tin rằng hai bị can Dương và Tiến đã phạm
tội, nhưng theo Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự, vẫn phải coi hai bị can
vô tội ở thời điểm này.
Đối với một vụ án đặc biệt nghiêm
trọng như vậy, khi toàn xã hội đều chú ý vào diễn tiến vụ việc, những phát ngôn
báo chí của những người đại diện cho các cơ quan tiến hành tố tụng cần rất cẩn
trọng. Phát ngôn của họ không được phép khiến cho công chúng tin chắc rằng các
nghi can chính là thủ phạm. Các cơ quan tiến hành tố tụng cần tránh đưa ra
những phát ngôn báo chí có khả năng dẫn đến những thành kiến lớn, làm ảnh hưởng
đến sự công bằng của quy trình tố tụng.[1] Các
thông tin về vụ án trên các phương tiện thông tin đại chúng cần tránh làm tổn
hại đến quyền được giả định vô tội của bị can, bị cáo.[2]
Tuy vậy, từ thông tin báo chí đã đưa,
có thể do tính áp lực của chuyên án, mức độ chấn động của vụ án đã khiến đôi
khi cơ quan chức năng có những điểm còn chưa cẩn trọng về ngôn từ, khiến nguyên
tắc giả định vô tội có thể bị ảnh hưởng. Chẳng hạn phát ngôn “làm thay” nhiệm
vụ xét xử của tòa án: Với tài liệu chứng cứ thu thập được và lời khai nhận tội
của các nghi can "có đủ căn cứ khẳng định Dương
và Tiến đã gây ra vụ giết người, cướp tài sản đặc biệt nghiêm trọng". Có
lẽ nên nói rằng: “có đủ căn cứ để cáo buộc Dương
và Tiến đã gây ra vụ giết người, cướp tài sản đặc biệt nghiêm trọng”.
Hoặc chẳng hạn phát ngôn: "Trong
vụ án này không thể có oan sai, bởi các chứng cứ về vật chất rất
rõ ràng. Đến giờ cơ bản chúng tôi đã thu được tất cả tài liệu, chứng cứ, không
còn vướng mắc như các vụ án khác". Có lẽ để cẩn trọng, việc khẳng định
rằng vụ án không thể có oan sai nên là một nhận định nội bộ thay vì một tuyên
bố trước công chúng.
Ngoài ra, một thiếu sót nữa là một số
từ dùng để chỉ hai nghi can chưa phù hợp, như "hung
thủ", "chúng", "bọn chúng". Nên thay “hung thủ” bằng “nghi can”,
“nghi phạm” hoặc “bị can” (sau khi khởi tố); và cũng nên thay “chúng” bằng
“họ”.
Các cơ quan báo chí cũng cần cẩn
trọng dùng từ ngữ, hình ảnh phù hợp, tránh xâm phạm đến quyền giả định vô tội
của bị can, bị cáo. Việc một số tờ báo nhanh chóng gọi “nghi can” là “hung thủ”
có thể coi là một trong những biểu hiện vội vàng, sai nguyên tắc.
Bất cứ ai cũng hi vọng vụ án được
sáng tỏ, để phần nào an ủi những người đã mất đi sinh mạng một cách oan uổng.
Nhưng con đường công lý còn dài, hãy chờ đến ngày tòa án thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ công lý của mình.
(Giảng viên Khoa Luật - ĐHQGHN, NCS
Đại học Macquarie, Australia)
----
[1] Council
of Europe Recommendation Rec (2003)13 on the Provision of Information through
the Media, Principle 10.
[2] Council
of Europe Recommendation Rec (2003)13 on the Provision of Information through
the Media, Principles 1 and 2.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét