Ăng gô loại móng trâu, màu vàng của Liên Xô |
Chuyện chiếc ăng gô lồi đít
Không biết các bạn đơn vị khác khi đi B được phát ăng gô vuông Trung Quốc hay loại móng trâu màu vàng của Liên Xô. Đoàn
302 chúng tôi khi đi B thì võng dù to, ăng gô Liên Xô cũng to, sơn vàng. Lính gọi
là ăng gô L.. trâu. Loại này nấu được nhiều. 1 kí gạo cho vào đậy nắp chặt, đun đến hết bọt sùi ra là chín. Cậy nắp ra bới lên nó cứ nở tung, đến khiếp.
Nhưng nhìn những đơn vị có ăng gô vuông TQ vẫn thấy thích, nó đẹp, gọn, lại
bằng hợp kim cứng. Sau này khi đánh nhau mới biết lính VNCH cũng rất thích loại
Gô vuông này.
Gô là cứu
cánh của lính. Dùng nó múc nước tắm, nấu cơm canh, nó đựng các đồ linh tinh khi
hành quân ... Lính không có gô coi như cụt tay chân khi trong rừng hay đi công tác
lẻ. Khi mới hành quân ở trên đất bắc, gô vàng ươm trông thích mắt. Qua một lần
đun nấu nó nhẻm đi nham nhở, vài lần đun nó đen tuyền, sơn bong đi hết, đánh cọ
nó lộ ra màu nhôm trắng lam nham. Lính mới - gô đẹp, lính cũ - gô xấu. Lính đã qua đánh nhau nhìn gô, nhìn tăng
võng là biết. Nhưng tất cả lính ở
chiến trường trừ cánh 559 và lái xe ra, thì đều đói. Cho nên ăng gô nào cũng
méo mó đen thui. Nhưng gô mà lồi đít thì khó; mà đây là nó lồi xuống dưới,
mà lồi rất sâu cơ.
Kỷ vật chiến trường: bi đông, ăng gô vuông Trung Quốc |
Chuyện thế này.
Một hôm, tôi và
Lương Lợi sinh viên khoa chế tạo máy với
cậu nữa tên Chung (người Ninh Bình) được lệnh đi công tác vượt qua sông Sa Thày sang phía Miên. Công tác là: tới một cái kho của Binh trạm Trung nhận 75
kí cá khô cho đơn vị. Khỏi phải nói bọn tôi sướng thế nào. Đi như thế là ra
phía sau, là gặp lính hậu cần, là có cái ăn và xin thuốc hút. Hăm hở, nói
cười, thôi thì được dịp xả láng thích thì đi, mệt thì nghỉ chả ai chỉ huy ai. Qua sông, nhìn mấy cô gái ở trần đi nương cặp vú nghênh ngang nâu sẫm mà tê
tê cái sống lưng. Họ đeo gùi lên dốc, đít cứ cong tớn lên, những đường cong thật
hoang dại khiến mấy chú lính vấp tụt
dép ...
Đến kho. Chao ơi, cũng là đời bộ đội sao người ta sướng thế. Họ có nhà ở lợp bằng lá trung quân (thứ lá đan vỉ ghép lại, mà rất khó cháy). Có đài để nghe, chăn nuôi gà vịt, súng AK dùng để đi săn, tăng võng làm
ri-đô che vách hầm. Trông ai cũng đỏ đắn, dễ nhìn, chả bù cho bọn tôi hôi, bẩn, đói hốc đói hác.
Nhìn hệ thống kho tàng mà khiếp, sàn kho cao chừng 1 mét rồi
mới đến gạo mắm muối, lương khô, cá khô, thuốc men. Thấy bọn tôi vêu vao
đói khát họ cũng thương, cho ăn bữa cơm. Cả đời ở lính B3 tôi chưa bao giờ được ăn bữa cơm ngon đến thế. Thịt hoẵng
kho, cơm gạo nương, lại có cả quả sung muối chua thay cà. Rồi họ cho mỗi thằng
nhúm thuốc Miên. Lúc lấy cá khô, họ cân đong hẳn hoi. Xong xuôi người nhà
kho hỏi: có lấy cá khô đi mà ăn không. Ôi, còn gì bằng, sáu con mắt long
lanh không kịp gật đầu. Nhưng cụt hứng khi nghe: Chỉ cho một Gô thôi. Thằng
Lương Lợi bỏ gô ra, chúng tôi bốc nhẹ nhàng từng nhúm cá chi chi cho vào gô,
cho đến đâu lèn đến đấy. Bốc mãi mới đầy và khi đầy lại lèn nữa; lại cho thêm, lại lèn nữa, lèn mãi cái ăng gô lồi đít, lồi nữa, lồi nữa. Đến khi tay thủ
kho kêu lên: bục mẹ nó gô bây giờ. Chúng tôi mới thôi, thật là tiếc ... cái
gô Liên Xô bé quá.
Ra về mỗi thằng đeo
cái ba lô cá nhẹ tênh. Bởi mình đã có một gô đầy cá. Mặt trời xuống đằng sau
lưng, sông Sa Thầy réo gầm phía trước mặt. Đêm nay chúng tôi mắc võng bên
sông. Tôi đi tìm lá bứa. Lợi và Chung nổi lửa ca cóng. Gạo xin, cá khô xin. Ngon và no quá. Gíó thổi ù ù bên sông. Mùa khô trời trong veo lạ thường. Nằm
võng gần nhau Lợi bảo tôi, hôm nay no quá lại nhớ cái hồi đói kém ở trường mày
ạ. Tôi bảo, đói ở trường thấm gì với ở đây. Lợi nhỏm dậy; mày nhầm rồi, hồi
tao làm tổ trưởng ở lớp, thằng P tổ phó nó còn làm giả được phiếu cắt cơm để lấy
gạo về mang ra nhà dân nấu ăn thêm đấy. Im lặng, tôi đang nhớ thằng P. cái
thằng học giỏi nhưng kì khám bộ đội nào nó cũng thoát. Hồi lâu Lợi quay níu
võng tôi, nó bảo: sau này mày về, mày
nói với P rằng hồi ấy thằng Lương Lợi biết rõ nó lấy ra được bao nhiêu gạo mì
nhưng không nỡ nói vì thương nó đói đó thôi. Tôi bảo thế mày không về sao? Nó
im lặng. Nó ngủ từ lúc nào. Giấc ngủ của ba thằng con trai no nê với ba nụ cười
ngây ngô trên võng ... Đêm Tây Nguyên đì đùng đưa tôi mơ về miền quê trung du khốn
khó của mình.
Tôi về đại đội 7
còn Chung về đại đội 5 cùng Lương Lợi. Tháng 7 mùa mưa năm ấy, đại đội 5 đánh
địch nống ra đồi Mắt Ngỗng bắc đường 19. Trận ấy vì trinh sát đi bám địch
không kĩ nên thất bại. Mười ba chiến sĩ hi sinh. Thằng Chung bị thấu phổi, thế mà không chết. Nó may mắn được ra
bắc. Rồi nó về huyện đội Gia viễn ở Ninh bình. Hai tháng sau khi thằng Chung bị thương, tôi và Lương Lợi gặp
nhau ở lớp tập huấn 7 ngày. Nó tập huấn cối, tôi học bản đồ. Mùa mưa Tây Nguyên thối nát cả rừng, chúng tôi mắc võng kiểu chuồng trâu bên nhau. Nửa
đêm Lợi moi trong cóc ba lô nhúm thuốc rê to bằng quả quít, vê cho tôi một điếu. Nó bảo, hôm ở kho quân nhu bên binh trạm Trung tao xin của một thằng đồng
hương, mấy tháng rồi vẫn để giành. Đêm thùm thũm đen và đoành đoạch pháo “đĩ" từ phía Thanh An vọng về, chúng tôi
hút thuốc và nói với nhau ước vọng ngày trở về trường Đại học. Nó bảo, tao muốn
sau này có ra trường xin về quê lắp trạm bơm sông Đáy. Mày có đi chùa Hương
tao cho vào vườn nhà tao mắc võng ngủ nhờ. Hai thằng cười rinh rích. Tôi bảo, hồi ở tân binh ngoài Bắc Thái cái Liên mũi đỏ người Gia Lâm tới thăm mày, ra
sao rồi? Nó lặng im. Lâu sau nó bảo, tao chắc gì trở về, tao bảo nó rằng
tao không yêu được gái đại học đâu. Nó khóc, rồi về và biệt không bao giờ thư
từ nữa.
Tháng 10 Lương Lợi hi sinh trên điểm cao Chưgara ở tây Pleiku. Tôi không biết cái gô của nó
ai giữ, hay có đưa về trong ba lô kỉ vật liệt sĩ không. Nếu có, những người
thân liệu có hiểu vì sao cái đít ăng gô lại lồi ra như thế không?
Hoà bình chúng tôi về lại trường. Cái thằng tổ phó của
Lương Lợi đã tốt nghiệp và ở lại trường làm cán bộ giảng dậy. Tôi lại gọi là
thầy. Bài thi kì đầu tiên từ chiến trường trở về, môn chi tiết máy tôi lên trả bài
đúng vào nó. Hai chúng tôi như không quen biết, nó cho tôi bốn điểm rồi lạnh
lùng bước ra khỏi phòng thi. Tôi cũng không muốn gặp lại nó để chuyển lời của
Lương Lợi tới nó. Mãi về sau tôi vẫn giữ kín lời của Lợi.
Đằng đẵng với mưu sinh của đời, mãi cho tới cách đây hơn
tháng tôi tìm về quê Lợi ở trong chùa Hương. Hỏi thăm loanh quanh mãi rồi cũng
tới nhà Lợi. Thật ra đây là nhà anh trai nó, người chịu trách nhiệm hương khói
đó thôi. Nó đâu có vợ con gì, cha mẹ thì đã về với tổ tiên từ lâu. Hoá ra
ngôi nhà anh nó ở ngay trạm bơm thật lớn trên bờ sông Đáy. Bức ảnh trên bàn thờ
là do cô bạn làng bên thời học cấp ba cung cấp, còn tịnh nó không còn thứ gì để
lại. Trong khói nhang tôi thấy Lợi nhìn mình trách móc. Mày muộn màng quá,
mày cứ vin vào công tác công te ư? Đời, trả nghĩa mới khó chứ kiếm tiền đâu có
khó lắm. Lương Lợi hiền từ, trẻ trung qua làn khói, còn tôi ... tôi già cỗi
trong nhiều ham muốn ở đời. Cái ăng gô lồi đít của Lợi chẳng ai đưa được về tới
được gia đình nó. Nó chìm vào dĩ vãng cuộc chiến như hàng chục vạn cuộc đời khác
trên khắp những cánh rừng, bờ bãi đất nước mình một thời binh lửa.
Viết đến đây tôi lại trào nước mắt, giọt nước mắt buồn, nó đắng hơn là mặn.
theo Nguyễn trọng Luân
theo Nguyễn trọng Luân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét