Thứ Hai, 7 tháng 1, 2019

VIỆT NAM VÀ CAN THIỆP NHÂN QUYỀN 40 NĂM SAU CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM



Vu Minh Hoang - con trai của ĐS Minh Quang Vu không chỉ đẹp trai hơn bố, mà có lẽ còn giỏi hơn bố nhiều. Hoàng đang là nghiên cứu sinh Sử học tại Đại học Cornell. 
Kỷ niệm 40 năm Chiến tranh Biên giới Tây Nam, mình đã đặt Hoàng viết một bài phân tích lý do sự thực vì sao Việt Nam đưa quân sang Campuchia. Rất tiếc, rất buồn, là Soha và nhiều tờ báo mình hỏi đều không đăng bài báo này!
Mình là dân học lịch sử, tuyển thẳng ĐH cũng nhờ môn Lịch sử, nên với mình, đây là một tư liệu quý!
Mình ko bao giờ nghĩ rằng chúng ta nên tiếp cận lịch sử bằng sự lừa dối và né tránh.
 Thật tiếc nuối vì đã không thể đăng bài báo này nên xin được chia sẻ trên trên fb - kèm một lời xin lỗi với tâm huyết của Hoàng!
Bài rất đáng đọc - cho những ai yêu thích lịch sử!
Tô Lan Hương
***
Làm nghiên cứu sinh lịch sử thời đại công nghiệp hóa 4.0, tôi luôn phải giải đáp cho bạn bè, gia đình và các bậc phụ huynh, học sinh về lợi ích của công việc mình làm. Có ba lợi ích chính: thứ nhất, để hiểu biết thêm về bản thân và xã hội; thứ hai, để đánh giá, xem xét lại những hành động của thế hệ trước và nhắc nhủ cho những lãnh đạo đương thời là một ngày, họ cũng sẽ phải chịu phán xét của thế hệ sau; và cuối cùng, để rút ra được những bài học cụ thể cho các nhà hoạch định chính sách ngày nay. So với hai mục đích đầu mà có vẻ ít có giá trị thực tế, thì dường như mục đích thứ ba thực dụng hơn và do đó dễ đạt hơn. Tuy nhiên, trường hợp của cuộc Chiến tranh biên giới Tây Nam là một điển hình tại sao nhiều lúc lại rất khó rút ra được những bài học đúng đắn từ quá khứ. Tại cuộc hội thảo “Bạo lực Quy mô lớn ở Đông Nam Á từ 1945 tới nay” (“Mass Violence in Southeast Asia since 1945”) tại Đại học Yale tháng 11/2018 vừa qua, tôi đã đưa ra kết luận rằng tất cả các nước có liên quan dường như đều đã học những bài học sai từ cuộc chiến tranh này. Bài viết sau được trích một phần từ bài trình bày của tôi tại hội thảo, tập trung vào những bài học mà Việt Nam đã rút ra, và nêu lên một số bài học khác chúng ta có thể nên cân nhắc.
Trong những tuần lễ dẫn tới ngày 7/1/2019 kỷ niệm 40 năm quân tình nguyện Việt Nam đã giúp các thế lực yêu nước Campuchia giải phóng Phnom Penh khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot – Ieng Sary, tôi đã đọc được nhiều bài hoài niệm của các nhà báo, các cựu chiến binh, các lớp chuyên gia, những người đã dành tuổi thanh xuân tươi đẹp nhất chiến đấu kiên cường trên đất bạn. Họ hồi tưởng về những hy sinh trong suốt hơn một thập kỷ từ 1977 tới 1989 để bảo vệ chủ quyền biên giới và sau đó là giúp bạn Campuchia dẹp tan chế độ diệt chủng. Là người đi sau, tôi không đủ tư cách và cũng không muốn viết gì để pha loãng đi những lý tưởng của thế hệ anh hùng này. Nhưng Chiến tranh biên giới Tây Nam là một cuộc chiến vô cùng phức tạp, và nếu trong những hoạt động kỷ niệm chúng ta chỉ nhớ lại những hồi ức đẹp và né tránh những câu hỏi hóc búa, thì có lẽ chúng ta đã bỏ phí cơ hội để rút ra những bài học hữu ích mà thế hệ trước đã trả giá bằng xương máu để có được.
Câu hỏi hóc búa nhất nhưng cũng quan trọng nhất là, Việt Nam đã giúp giải phóng Campuchia chủ yếu vì lý do tự vệ hay là can thiệp để giải cứu dân tộc Campuchia khỏi nạn diệt chủng? Trong bối cảnh ở Campuchia vẫn tồn tại những thế lực trong phe đối lập miệt thị và gây khó dễ cho cộng đồng người gốc Việt sinh sống trên đất Campuchia, vu cáo việc Việt Nam thôn tính đất nước, xâm lấn biên giới, cả hai chính phủ Việt Nam và Campuchia đã tích cực dùng mốc kỷ niệm 40 năm giải phóng Phnom Penh để nhấn mạnh công lao của quân tình nguyện Việt Nam giải cứu Campuchia khỏi ách diệt chủng. Tại buổi lễ sáng ngày 4/1/2019 tại Hà Nội, có mặt các lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng, nhà nước Việt Nam và Campuchia, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đánh giá cao “lịch sử quan hệ đoàn kết, kề vai sát cánh bên nhau giữa hai nước, hai dân tộc Việt Nam và Campuchia lúc khó khăn hoạn nạn cũng như trong hòa bình, phồn vinh, hạnh phúc”. Mục tiêu can thiệp bảo vệ quyền được sống của người dân, chống chế độ diệt chủng tàn bạo, trên cơ sở tình đoàn kết giữa hai dân tộc được đưa lên hàng đầu; mục tiêu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ khỏi những cuộc tập kích, tàn sát của quân Khmer Đỏ tại các tỉnh biên giới như An Giang, Tây Ninh từ tháng 4 năm 1977 cũng được nhắc đến nhưng là yếu tố phụ.
40 năm trước, Thứ trưởng Ngoại giao Phan Hiền phát biểu về Chiến tranh biên giới Tây Nam trước Đại Hội đồng Liên hợp quốc vào sáng ngày 28/9/1979 trong một bối cảnh rất khác. Diễn ra chỉ sáu tháng sau khi quân Trung Quốc rút khỏi các tỉnh miền Bắc, tại phiên họp này phế quân Khmer Đỏ, Trung Quốc, Hoa Kỳ, ASEAN đã cáo buộc Việt Nam tội xâm lược đất nước láng giềng, và ngăn chặn không cho đại diện nhà nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia được công nhận tại LHQ. Trước Đại Hội đồng, Thứ trưởng Phan Hiền khẳng định là Việt Nam đã “thực hiện quyền tự vệ, nhân dân chúng tôi đã mạnh mẽ đáp trả [những cuộc công kích của Khmer Đỏ], đập tan quân Pol Pot xâm lược Tây Ninh cuối năm 1978, và bằng cách đó thoát khỏi gọng kìm bao vây của Bắc Kinh và tạo ra điều kiện thuận lợi để chống lại thành công cuộc xâm lược trắng trợn của thế lực bành trướng Bắc Kinh vào ngày 17/2/1979”. Việc giải cứu dân tộc Campuchia khỏi chế độ diệt chủng cũng được nhắc đến, nhưng chưa từng bao giờ chính thức được ngoại giao Việt Nam sử dụng như căn cứ pháp luật cho việc đưa quân tình nguyện vào Campuchia.
Vậy rốt cuộc Việt Nam đã hành động chủ yếu vì lý tưởng bảo vệ nhân quyền, chống tội ác diệt chủng hay vì lợi ích quốc gia? Rõ ràng, hai mục đích này gắn liền với nhau khi quân Việt Nam tiến vào Phnom Penh năm 1979. Nhưng giai đoạn từ tháng 4 năm 1975, khi quân Khmer Đỏ chiếm lĩnh Phnom Penh và ra lệnh dời toàn bộ dân ra nông thôn, khởi xướng chế độ diệt chủng, cho tới cuối năm 1977, Việt Nam vẫn giữ quan hệ với chính quyền Khmer Đỏ, Đại sứ quán Việt Nam tại thành phố ma Phnom Penh vẫn duy trì hoạt động. Những người tị nạn Campuchia đã đổ qua biên giới và cầu xin Việt Nam cứu giúp, và những cán bộ thân Việt Nam đã bị thanh trừng thẳng tay từ những tháng đầu tiên của chế độ Pol Pot nhiều năm trước khi Mặt trận Đoàn kết Cứu nước Kampuchea được thành lập cuối năm 1978 và chính thức thỉnh cầu sự giúp đỡ của quân Việt Nam. Việt Nam có thể giải thích về thái độ và chính sách của mình trước năm 1975 là chưa hiểu rõ bản chất Khmer Đỏ khi ta giúp đỡ những kẻ giả dạng là những nhà Cộng sản chân chính này trước khi chúng nắm được quyền lực, nhưng không thể thanh minh như vậy cho quãng thời gian từ sau tháng 4 năm 1975 cho đến cuối năm 1978. Chúng ta phải thừa nhận rằng Việt Nam, như tất cả các nước khác trên thế giới, đã rơi vào thế bị động trong khi bè lũ Pol Pot – Ieng Sary tiêu diệt gần hai triệu công dân Campuchia bao gồm mọi sắc tộc, trong đó có cộng đồng người Việt, người Chàm, và thậm chí cả người Hoa, hành động mà Tòa án Đặc biệt xét xử tội ác Khmer Đỏ đã phán quyết là chính sách diệt chủng. Phải hơn một năm rưỡi sau khi lãnh thổ Việt Nam bị liên tiếp xâm phạm, và khi Việt Nam đã rơi vào nguy cơ chiến tranh hai mặt trận, chúng ta mới tiến quân vào giải phóng Phnom Penh.
Thái độ này của Việt Nam hoàn toàn dễ hiểu. Cho dù tội diệt chủng thuộc dạng tội nghiêm trọng nhất trong luật quốc tế (violation of peremptory norms), cho đến nay luật quốc tế vẫn thiên về gìn giữ ổn định và hòa bình giữa các quốc gia hơn là bảo vệ nhân quyền. Các Hòa ước Westfalen năm 1648 mà đã kết thúc cuộc Chiến tranh 30 năm giữa các thế lực Công giáo và Tin lành ở Châu Âu đã biến nguyên tắc chủ quyền thành nền tảng của trật tự quốc tế. Nguyên tắc này không cho phép một quốc gia nào can thiệp vào nội bộ của quốc gia khác, bất kể quốc gia kia có những chính sách vô nhân đạo và tồi tệ thế nào trong nội bộ. Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 cho phép Hội đồng Bảo an phê chuẩn những biện pháp can thiệp quân sự, tuy nhiên chỉ với mục đích giữ gìn hòa bình. Năm 1979, Hội đồng Bảo an đã cân nhắc can thiệp vào Campuchia, nhưng lại với mục đích bắt Việt Nam phải rút quân, và phải nhờ phiếu phủ quyết của Liên Xô mới không đưa ra nghị quyết chống Việt Nam và CHND Campuchia. Phải đến 2005 thì Liên hợp quốc mới thông qua hai bài báo cáo về Trách nhiệm Bảo vệ (Responsibility to Protect hoặc R2P), khẳng định rằng bảo vệ nhân quyền là nhiệm vụ cơ bản của một nhà nước, và một nhà nước vi phạm nghiêm trọng nhân quyền của nhân dân có thể đánh mất chủ quyền. Tuy nhiên, cả hai báo cáo này đều không đưa ra cơ sở pháp lý mới nào cho việc can thiệp bảo vệ nhân quyền ngoài tầm kiểm soát của Hội đồng Bảo an, và vấn đề can thiệp vào nội bộ với mục đích bảo vệ nhân quyền vẫn còn được tranh cãi nhiều sau khi quân NATO lấy cớ can thiệp nhân đạo để tiếp tay phiến quân ở Libya và Syria.
Để bảo vệ lợi ích quốc gia, Việt Nam trong những năm cuối thập kỷ 1970 đã cố gắng tìm mọi cách thương lượng với chế độ diệt chủng để tránh phải tái tham chiến khi đang cần cấp bách xây dựng lại đất nước sau 34 năm chiến tranh. Và quả nhiên, khi Việt Nam cuối cùng đã đưa quân vào giúp giải phóng Phnom Penh và ở lại 10 năm giúp bạn xây dựng lại đất nước từ tro tàn và ngăn chặn sự trở lại của chế độ Khmer Đỏ, chúng ta đã bị nhiều nước trên thế giới trừng phạt: Trung Quốc đã tấn công vào biên giới phía Bắc; các nước tư bản chủ nghĩa vừa thiết lập quan hệ với Việt Nam đã rút viện trợ và cắt quan hệ thương mại đầu tư; Mỹ và ASEAN đã chung tay với Trung Quốc giúp khôi phục lực lượng cho Khmer Đỏ và cho chúng thánh địa ở biên giới với Thái Lan để làm quân Việt Nam và CHND Campuchia phải chịu tổn hao kéo dài. Với cái giá rất cao đã một phần ước lượng trước này, việc Việt Nam tìm mọi cách tránh can thiệp vào Campuchia kể cả khi hiểu rõ rằng đây là một chế độ diệt chủng là hoàn toàn có thể hiểu được. Nhưng Việt Nam không thể cùng một lúc thừa nhận điều này mà lại vẫn kiên định rằng mục tiêu chính của quân đội Việt Nam khi giải phóng Phnom Penh là để giúp bạn kết thúc nạn giệt chủng.
Bài học quan trọng nhất mà Việt Nam cũng như các nước trong khu vực đã rút ra từ chiến tranh biên giới Tây Nam là việc can thiệp vào nội bộ nước khác, bất kể chính phủ đó có tồi tàn tới đâu, là không có lợi về mặt đánh giá chi phí và lợi ích thu được, và xét tổng thể thì vượt ra ngoài khả năng của những nước nhỏ và trung bình. Sau khi giải quyết xong vấn đề Campuchia, Việt Nam đã ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác vào năm 1992 khi trở thành quan sát viên ASEAN. Theo đó, chúng ta đã chấp nhận một trật tự khu vực và thế giới trong đó chủ quyền quốc gia được đề cao hơn hẳn nhân quyền. Khi thảm họa diệt chủng xảy ra ở Rwanda và Bosnia năm 1994, hay khi ngay trong khu vực Đông Nam Á dân quân Indonesia tàn sát dân Đông Timor năm 1999 và quân đội Myanmar cho đến nay vẫn đang có chính sách diệt chủng với dân tộc thiểu số Rohingya theo đánh giá của Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc và nhiều nhà quan sát quốc tế trung lập, Việt Nam chỉ dừng lại ở việc nêu quan ngại và không có động thái gì mạnh mẽ cả về lời nói lẫn hành động. Khi Tòa án Hình sự Quốc tế được thành lập năm 1999 để truy tố những tội phạm chiến tranh và vi phạm nhân quyền, Việt Nam đã không ký tham gia. Trong bối cảnh Việt Nam đang phải đấu tranh pháp lý để bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông, trong khi đang cần tranh thủ quan hệ với cộng đồng ASEAN láng giềng, và trong một thế giới mà các nước xã hội chủ nghĩa chiếm thiểu số trên trường quốc tế, Việt Nam đã chọn con đường đề cao trên hết bảo vệ lợi ích quốc gia và thể chế, kiên định trong khái niệm chủ quyền tuyệt đối bất khả can thiệp bên ngoài, thay vì theo đuổi những lý tưởng đẹp đẽ nhưng cao xa và khó có cơ sở pháp lý quốc tế vững chắc như can thiệp vào nội bộ một nước khác để bảo vệ nhân quyền.
Tôi đã giải thích kỹ về bài học “tôn trọng chủ quyền tuyệt đối” mà Việt Nam và các nước khác trong khu vực đã rút ra từ cuộc Chiến tranh biên giới Tây Nam là để làm sáng tỏ vấn đề, chứ không phải vì cá nhân tôi nghĩ đây là bài học đúng đắn. Ngược lại, có ba bài học khác mà theo tôi Việt Nam và các nước khác đáng lẽ phải học từ cuộc Chiến tranh Biên giới Tây Nam:
1. Thế cô lập của Việt Nam trong thập kỷ giúp bạn Campuchia phần lớn là vì bối cảnh Chiến tranh lạnh. Trong thời buổi hiện nay, Việt Nam có thể mạnh dạn hơn trong hợp tác quân sự với các nước khác nhằm giữ gìn hòa bình và chống lại các thế lực diệt chủng trong và ngoài khu vực. Với tư cách là một trong số rất ít đất nước đã từng bằng can thiệp quân sự kết thúc nạn diệt chủng (dù trong đó có một phần vì lợi ích quốc gia) sau Chiến tranh thế giới thứ II, có uy tín trong Hiệp hội Không liên kết, là một mô hình thành công trong vấn đề chung sống hòa bình với các dân tộc thiểu số, và với kinh nghiệm đàm phán nhiều hòa ước song phương và đa phương, Việt Nam có thể tích cực đóng vai trò trung gian, tư vấn, và gìn giữ hòa bình cho những khu vực xung đột trên thế giới. Có những dấu hiệu tích cực theo hướng này. Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm kỳ đầu tiên làm thành viên của Hội đồng Nhân quyền LHQ năm 2014-2016, tập trung đẩy mạnh các vấn đề bảo vệ môi trường và quyền người lao động. Tháng 10/2018 vừa qua, Lực lượng gìn giữ hòa bình Việt Nam đã xuất quân đi làm nhiệm vụ quốc tế, lần này dưới lá cờ Liên hợp quốc tại Nam Sudan. Mong là trong tương lai, Lực lượng gìn giữ hòa bình Việt Nam sẽ còn tham gia nhiều hơn nữa vào các chiến dịch giữ gìn hòa bình của LHQ, đảm nhiệm cả những vai trò mang tính chất quân sự nếu cần thiết.
2. Trong buổi tiệc cuối năm học đầu tiên của Harry Potter tại trường Hogwarts, giáo sư Dumbledore đã (tôi tin chắc một phần vì thiên vị) thưởng cho nhà Gryffindor 170 điểm, cho phép nhà này vượt trội từ vị trí thứ tư lên vị trí thứ nhất. 10 điểm quyết định cuối cùng được thưởng vì hành động dũng của Neville Longbottom khi cậu bé ngăn cản bè bạn mình vi phạm nội quy nhà trường. Theo Dumbledore, “Cần rất nhiều can đảm để đối mặt với kẻ thù, nhưng đối mặt với bạn còn cần nhiều can đảm hơn”. Trong những năm cuối thập kỷ 1970, Việt Nam đã tìm mọi cách để tránh phải đối mặt với những người anh em Cộng sản láng giềng là chế độ Khmer Đỏ, kể cả khi đã thừa biết về những tội ác của bè lũ Pol Pot – Ieng Sary. Ngày nay, chúng ta và các nước ASEAN khác đang lặp lại sai lầm này với Myanmar. Như những lá thư từ những người đồng đoạt giải thưởng Nobel Hòa bình Malala Yousafzai, Mohammad Yunus, và Giám mục Desmond Tutu, và những phát biểu của lãnh đạo Malaysia nêu rõ, họ đang chỉ trích chính phủ của bà Aung San Suu Kyi chính vì họ là những người bạn tốt và không thể cho phép chính phủ của bà tiếp tục gắn kết với những lực lượng quân đội theo chính sách bạo lực chống các sắc tộc thiểu số. Nếu Việt Nam muốn làm láng giềng tốt, nếu chúng ta muốn noi gương thế hệ ông cha đã đấu tranh trường kỳ để xóa bỏ nạn diệt chủng khỏi khu vực Đông Nam Á, chúng ta phải cùng các nước ASEAN khác can đảm đối thoại thẳng thắn hơn với Myanmar để tạo áp lực chấm dứt nạn diệt chủng đang diễn ra ngay dưới mái nhà chung ASEAN.
3. “Lúc đầu chúng tiêu diệt những nhà chính kiến xã hội chủ nghĩa, nhưng tôi im lặng – vì tôi không theo xã hội chủ nghĩa.//Sau đó chúng tiêu diệt những hội viên nghiệp đoàn, nhưng tôi im lặng – vì tôi không phải là hội viên.//Sau đó chúng tiêu diệt người Do Thái, nhưng tôi im lặng – vì tôi không phải là người Do Thái.//Sau đó chúng tới tiêu diệt tôi – và không còn ai đứng lên bảo hộ cho tôi”. Những dòng thơ kinh điển này của mục sư Martin Niemöller nhắc nhở chúng ta rằng gần như tất cả các trường hợp trong cận đại, các chế độ diệt chủng đã liên tục tìm đến những kẻ thù mới. Do vậy, chúng ta không thể để mặc cho một chế độ diệt chủng hoành hành nội bộ, mà bắt buộc phải đối mặt với chúng sớm nhất có thể. Từ 1975 đến 1977, Việt Nam đã rất yêu hòa bình và tìm cách chung sống hòa bình với một chính quyền diệt chủng, nhưng sau khi tàn sát nhân dân Campuchia và khởi chiến với Thái Lan và Lào, cuối cùng thì chính quyền Khmer Đỏ cũng đã quay sang tấn công Việt Nam. Hiện nay, khả năng nổ ra chiến tranh giữa Bangladesh và Myanmar là chưa cao. Tuy nhiên, đã có những dấu hiệu đáng lo ngại: tháng 3/2018, quan hệ hai nước đã trở nên căng thẳng khi Myanmar tăng cường đáng kể hiện diện quân sự trên biên giới. Tinh thần đoàn kết trong khối ASEAN mà chúng ta muốn gìn giữ bằng sự im lặng cũng đang bị đe dọa, khi những hành động của Myanmar gây phẫn nộ trong những nước đại đa số theo đạo Hồi trong khu vực là Malaysia, Indonesia, và Brunei. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy, nếu chúng ta theo đuổi chính sách nhân nhượng với những chế độ tàn bạo để cố gìn giữ hòa bình nhất thời, chúng sẽ càng lấn tới và về lâu dài chúng ta có nguy cơ sẽ đánh mất tất cả.
Tôi mong là trong dịp kỷ niệm 40 năm Việt Nam trở thành đất nước duy nhất gửi quân tình nguyện giải cứu nhân dân Campuchia khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot, bất chấp cái giá khổng lồ phải trả, chúng ta có thể suy nghĩ và thảo luận thẳng thắn về vai trò bảo vệ nhân quyền của Việt Nam trong khu vực và thế giới, không chỉ những năm cuối thập kỷ 1970 mà cả hiện tại và trong tương lai. Mong là bài viết này đã đóng góp chút nào cho cuộc thảo luận này.
Vũ Minh Hoàng là nghiên cứu sinh Sử học tại Đại học Co
nell, Hoa Kỳ. Những ý kiến trên là của cá nhân anh.

Không có nhận xét nào: