Phan Thúy Hà là một trong 12 nữ đại biểu Việt Nam dự diễn đàn quốc tế về lịch sử “Phụ nữ Việt Nam, sáng tạo và dấn thân” tại không gian học thuật College de France, theo lời mời của nhà tổ chức, Tiến sĩ Sử học Bùi Trân Phượng. Trong số những người viết văn hiện đại, Phan Thúy Hà là người tôi kính trọng nhất. Hãy đọc kỹ bài phát biểu của chị dưới đây để thấy, đôi khi một người dấn thân, một người viết không hẳn vì những cuốn sách mà là vì một sự thôi thúc không thể giải thích...
Vì nhiều bạn không mở được trang này, tôi xin copy & paste vào đây, bài phát biểu khá dài:
Chia sẻ của một phụ nữ viết sách tự do
Phan Thúy Hà
Tôi không phải là nhà văn, dù nhiều người gọi tôi như vậy.
Sáu năm qua, tôi dành nhiều thời gian để làm một việc : viết sách.
Tôi đã in được năm cuốn sách, còn hai bản thảo đang trong quá trình làm tư liệu. Tôi dự định dành thêm hai năm cho công việc này.
Tại sao thêm hai năm mà không phải suốt đời ?
Với tôi, đây là một công việc đau khổ. Tôi trở nên trầm mặc, ít nói, ít cười, ngại những cuộc gặp gỡ vui vẻ từ khi tập trung làm các cuốn sách.
Bởi vì tôi luôn sống cùng với những ký ức đau buồn của các nhân vật của mình.
Tôi sinh ra ở huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Từ Hà Nội đi vào thành phố Hà Tĩnh là 400 cây số, từ thành phố đi ngược lên 30 cây số, rẽ vào một ngôi làng, đi lên một con dốc – ngôi nhà tôi ở đó. Cho đến khi 18 tuổi tôi mới ra khỏi làng, ra Hà Nội học đại học và làm việc tại một nhà xuất bản với chuyên môn là biên tập sách. Làm việc được mười năm tôi bỗng thấy chán với những cuốn sách mình biên tập. Tôi không muốn tiếp tục công việc trong một tâm lý làm để chờ ngày nghỉ hưu. Tôi quyết định bỏ việc. Chưa biết rồi sẽ làm gì tiếp sau.
Tôi ở nhà làm việc tự do. Chờ đến mùa hè là đưa hai con trai đi chơi khắp đất nước.
Trong một chuyến đi đến Tây Nguyên, tôi vào thăm nhà một cô em mà tôi quen trên một diễn đàn. Em có nỗi buồn lớn, chúng tôi đã chia sẻ với nhau qua tin nhắn nhiều lần, nay có dịp đi qua gần nhà em, tôi muốn đến thăm, cũng là để các con tôi biết thêm một vùng đất.
Em đang làm việc ở Đồng Nai. Bố em ra đường đón ba mẹ con tôi, dẫn vào nhà. Đường vào nhà em ngoằn ngoèo, qua những con dốc hai bên là hàng cây dâm bụt nở hoa đỏ thắm. Chú trò chuyện vui vẻ và nấu cơm mời ba mẹ con. Ăn xong cơm, chú ra vườn trèo lên cây dừa hái dừa. Chúng tôi ngồi bên thềm uống nước dừa, nhìn ra khung trời xanh trong, nắng chang chang nhưng không hề nóng, bởi gió cao nguyên.
Đột nhiên chú chỉ vào cổ tay của chú. “ Có một mảnh bom ở đây cháu này ”.
Tôi giật mình. Sao lại có thể có một mảnh kim loại trong cơ thể con người một cách ổn thỏa như vậy được.
Thật sao chú?
Cháu sờ thử xem.
Rồi chú kéo áo lên chỉ cho tôi ba mảnh bom ở bụng, gáy và hông. Những mảnh bom chạm vào thấy lận cận.
Người ta có thể sống được với rất nhiều mảnh bom dính trong cơ thể.
Tôi thấy kinh hoàng. Hai đứa con trai tôi tò mò cũng lại sờ lên làn da của ông, bày tỏ sự đồng cảm với mẹ.
Chú nói : Gia đình chú có bảy anh chị em đi chiến trường. Hai anh bị nhiễm độc rất nặng. Một anh nằm một chỗ mười hai năm, mới mất. Một anh đang nằm như xác khô trên giường đã mười lăm năm.
Chú nói tiếp : Chú viết đơn xin đi bộ đội bằng máu.
Viết đơn bằng máu ? Tôi nhăn mặt. Tôi nghe nói nhiều về việc thanh niên viết thư, viết đơn bằng máu xin đi bộ đội nhưng tôi nghĩ rằng đó là người ta phóng đại lên để tuyên truyền. Vì lấy đâu ra nhiều máu để viết một cái đơn, và việc chích máu đó đau lắm, trông ghê nữa.
Chú chích máu viết thật cháu ạ. Chú dùng dao chích máu ở đầu các ngón tay, dùng bút tre chấm vào, viết có mấy dòng thôi. Cả bốn đứa bạn cùng lớp làm vậy. Không viết đơn bằng máu thì vẫn được đi, nhưng thích làm như vậy để thể hiện quyết tâm, thể hiện máu anh hùng, bọn chú mới học lớp 10 mà. Sáu anh chị đã đi rồi, một anh đi đã bảy năm, mình chưa đi trong lòng nôn nóng, lỡ hết chiến tranh không còn cơ hội được đi đây đi đó, thể hiện chí làm trai.
Chiến tranh trên đất nước chấm dứt, chú chưa được về nhà, đi sang Campuchia thêm ba năm. Ở đó chú đã bị thương nặng, xếp loại 3/4 và được về. Về đến gần nhà, chú lên cơn sốt rét, ngã lăn ra bên đường, qua một đêm mới tỉnh dậy. Chiếc xe đạp, một ít tiền và ba lô bị lấy mất. Chú tay không đi về nhà, không có nổi một đồng trả tiền đò.
Chú về quê đi cày ruộng. Mảnh bom ở gáy làm chú đau đầu, có lúc như phát điên. Chú không lao động nặng được. Nhà bên bờ sông La mỗi năm hai trận lụt. Ngôi nhà bị cuốn trôi trong một trận lụt. Nhà mới dựng lên, gặp trận gió Lào, sơ ý khi đi xin lửa, nhà bị cháy. Không chịu nổi cảnh các con khóc ri rỉ suốt đêm vì đói. Chú đưa vợ con vào Tây Nguyên cuốc đất làm rẫy, xây dựng cuộc sống mới.
Tôi lặng đi khi nghe câu chuyện của chú.
Con trai tôi hỏi : Ông ơi, tại sao cả nhà ông lại chọn nghề nguy hiểm như vậy.
Nước mắt chú nhạt nhòa. Những giọt nước mắt tuổi già trước mặt hai đứa trẻ.
Trời đã về chiều, tôi chào chú, chở hai con đi về khách sạn. Ra đến sân, tôi quay lại nói với chú : Cháu sẽ viết những câu chuyện như thế này làm một cuốn sách. Cháu phải chia sẻ nỗi đau này cho cả thế giới biết.
Cảm xúc mạnh nên tôi nói liều. Tôi không nghĩ mình có thể viết được một cuốn sách. Không hình dung được mình sẽ viết gì.
Ngày đi học, tôi biết về chiến tranh như là một môn học. Học để thi, thi đỗ là xong. Đi làm chục năm, chiến tranh như là một đề tài làm sách, là những sáng tác văn học nhân kỷ niệm mấy chục năm tròn chiến thắng. Con gái của một người cha bộ đội và đã từng biên tập nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết về người lính, vậy mà tôi dường như chẳng biết gì hết.
Tôi kết thúc chuyến du lịch sớm hơn dự định, đưa các con lên tàu về quê.
Bạn tôi giới thiệu tôi đi gặp người cậu của bạn. Đó là chú Ngọc. Ngôi nhà chú ở ngôi làng cách làng tôi mười hai cây số nhưng tôi chưa từng biết đến. Cho nên, dù ở trong một huyện, thì tôi cũng thấy xa lạ. Hai đứa con tôi lúc đó đang học lớp hai và lớp năm, tôi gửi con cho mẹ trông và mỗi ngày tôi đi xe máy đến ngôi làng Gia Phố gặp chú Ngọc.
Làng Gia Phố nhà nào cũng có người đi bộ đội. Chú Ngọc dẫn tôi đến từng ngôi nhà, gặp các chú, các ông, các bà để hỏi chuyện.
Chú Ngọc đã trải qua 5 năm ở chiến trường với hơn một trăm trận đánh lớn nhỏ. Chú giải thích cho tôi từng từ ngữ bộ đội dùng trong chiến tranh. Chú vẽ sơ đồ từng trận đánh. Đầu óc tôi mông lung, hiểu được một phần nào.
Một buổi chiều, trước lúc tôi về, chú mang thang trèo lên gác lấy xuống một túi bóng. Trong đó đựng bảy lá thư và bức ảnh một thiếu nữ. Đó là kỷ niệm của chú với một thiếu nữ Sài Gòn - là con của một đại úy quân đội Việt Nam Cộng hòa — tức là “ người của phía bên kia ”. Chú mở phong bì, lấy thư ra, nhìn từng trang giấy, nhìn chứ không đọc. Tôi thấy nước mắt chú rơi xuống má. Chú nói, chú không dám đọc, đọc rồi đêm chú không ngủ được. Chú gấp những lá thư và ảnh vào túi bóng, đưa cho tôi giữ.
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét