Thứ Hai, 23 tháng 9, 2024

Quốc khánh 2/9 và mối lương duyên Việt - Mỹ

 


Khoảng tháng 10/1944, có một Trung uý phi công Mỹ tên là William Shaw trong khi làm nhiệm vụ lái máy bay trên vùng trời biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã bị quân Nhật bắn rơi xuống xã Đề Thám (huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng) - Đó là vùng chiến khu của Mặt trận Việt Minh - một tổ chức do Hồ Chí Minh sáng lập, không những tập hợp mọi lực lượng trong nước, mà còn liên kết với các tổ chức ngoài nước, với đại diện của các nước phe Đồng Minh trong mặt trận chống phát xuýt. Hồ Chí Minh đã chỉ thị phải bảo vệ, chăm sóc Trung uý Shaw cẩn trọng và tìm cách đưa về Pác Bó: "Khi ở trên trời là người của họ, xuống đây là khách của ta, phải đón tiếp chu đáo". Vậy là, sau khoảng 3 tuần leo đèo, lội suối, băng rừng ròng rã, vượt qua sự lùng sục bao vây của quân Nhật, viên phi công Mỹ nêu trên đã được đưa về Pác Bó.
Sau này, Thượng tướng Phùng Thế Tài - người đầu tiên bảo vệ Hồ Chí Minh từ khi trở về nước - đã kể lại tâm trạng của người phi công Mỹ ngày đó trong một hồi ký của mình: "Sau gần một tháng trời miệng như câm, có tai như điếc, được gặp Bác, được nghe tiếng nói của quê hương xứ sở, viên phi công Mỹ bàng hoàng sung sướng đến phát khóc. Anh ta hoàn toàn bất ngờ không hiểu tại sao giữa núi rừng của nước Việt Nam xa xôi này có cụ già trông rất quê mùa lại nói tiếng Anh giỏi đến thế. Ngạc nhiên hơn, anh còn biết cụ già này đã từng đặt chân đến nước Mỹ ngay từ khi anh ta còn chưa sinh ra trên đời. Tấm lòng nhân hậu của Bác có tác dụng cảm hóa Trung uý Shaw mạnh mẽ. Bác còn tặng người phi công Mỹ này bản "Chương trình Việt Minh" đã được Người trực tiếp dịch ra tiếng Anh. Sau đó, Trung uý Shaw đã trở thành "cầu nối" để Lãnh tụ Hồ Chí Minh gặp Tướng Claire Chennault (1893 - 1958), Tư lệnh Không đoàn 14, có biệt danh là đơn vị "Hổ Bay" của Mỹ, đại diện cho lực lượng Đồng Minh tại vùng Hoa Nam (Trung Quốc).
Để có cuộc gặp "không hẹn trước" với viên tướng Mỹ kể trên, Hồ Chí Minh đã phải đi giày cỏ, theo đường bộ, vượt hàng ngàn kilômét từ Pác Bó (Việt Nam) tới Côn Minh (Trung Quốc), trong sự kiểm soát gắt gao của các lực lượng thù địch. Khi tới Côn Minh, với cái cớ cần trao trả phe Đồng Minh viên Trung uý phi công Shaw được Việt Minh cứu sống khi máy bay bị quân Nhật bắn rơi trên chiến trường Bắc Đông Dương, Hồ Chí Minh đã tìm gặp một số người Mỹ, để thăm dò và vận động sự công nhận đối với tổ chức Việt Minh như một thành viên trong lực lượng chống phát xuýt. Trong số đó có Trung uý Charles Fenn - một sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ được phái đến Côn Minh, làm nhiệm vụ tại Cơ quan Hỗ trợ cho không quân tại mặt đất (AGAS).
Charles Fenn đã bị Hồ Chí Minh chinh phục hoàn toàn, ông rất cảm tình với Mặt trận Việt Minh, đã nhất trí việc đưa một số thiết bị thông tin và đào tạo các báo vụ viên cho Việt Minh. Tiếp đó, Hồ Chí Minh đã đề nghị Charles Fenn giúp đỡ để trực tiếp gặp và hội đàm với Tướng Chennault, Tư lệnh đơn vị mang biệt hiệu "Hổ Bay" của Mỹ, đang đóng bản doanh tại vùng Hoa Nam - Trung Quốc, cũng là người dại diện cao nhất của quân Đồng Minh tại khu vực. Tướng Chennault đã rất cảm động về sự giúp đỡ của Mặt trận Việt Minh đối với Trung uý phi công Shaw. Có lẽ, ông đã nhận thấy trong lời nói của Hồ Chí Minh là quyết tâm của một dân tộc yêu chuộng hòa bình, đứng về phe Đồng Minh chống phát xuýt: "Hiện nay, phong trào du kích của chúng tôi tuy đang lên rất cao nhưng vũ khí, thuốc men rất thiếu thốn. Chúng tôi đề nghị các ngài tạo điều kiện giúp đỡ để hai nước chúng ta có điều kiện mau chóng đánh bại phát xuýt Nhật".
Thái độ chân tình, thẳng thắn của Hồ Chí Minh cũng đã chinh phục được Chennault. Viên tướng Mỹ này đã hoàn toàn ủng hộ ý kiến của Hồ Chí Minh và hứa sẽ sẵn sàng giúp đỡ. Hai bên đã thoả thuận: Phía Việt Minh sẽ tăng cường lực lượng du kích và mở rộng phạm vi hoạt động của lực lượng này; cung cấp những thông tin tình báo và khí tượng cho không quân Mỹ hoạt động trên chiến trường chống Nhật ở miền Bắc Đông Dương... Ngược lại, phía quân Đồng Minh có trách nhiệm đưa các phái đoàn quân sự sang giúp đỡ Việt Minh huấn luyện quân sự, đồng thời trang bị vũ khí, điện đài và các trang thiết bị khác. Chennault kính trọng Hồ Chí Minh và tặng tấm ảnh của mình với dòng chữ: "Bạn chân thành của tôi". Sau đó, viên tướng Mỹ này đã chỉ thị cho Trung uý Charles Fenn thuộc cơ quan chiến lược tình báo Mỹ tại Trung Quốc thực hiện hợp tác với Mặt trận Việt Minh.
Khi Hồ Chí Minh về nước, đã có hai người Mỹ là Frank Tan và Mac Shin cùng sang giúp về điện đài. Về sau còn có John, một báo vụ viên OSS và một số người khác nữa. Những người bạn Mỹ được Việt Minh đón tiếp chu đáo, tạo mọi điều kiện để làm việc. Họ đã giúp Việt Minh một số điện đài, vũ khí và hướng dẫn người của ta sử dụng. Căn cứ của Mặt trận Việt Minh sau đó cũng được chuyển từ Pác Bó (Cao Bằng) sang Tân Trào (Tuyên Quang) để thuận lợi hơn cho sự phát triển lực lượng với các hoạt động lớn sau này.
Sau những cuộc gặp gỡ giữa Hồ Chí Minh với tướng Chennault, đại diện Tập đoàn Không quân số 14 của Đồng minh vào tháng 3/1945 và thiếu tá tình báo A. Patty của Cơ quan Tình báo chiến lược Mỹ OSS, cuối tháng 4/1945, mối quan hệ hợp tác giữa Việt Minh và Đồng minh đã được thiết lập. Một chủ trương về việc Mỹ giúp đỡ vũ khí, phương tiện liên lạc và huấn luyện quân sự cho lực lượng Việt Minh chống phát xuýt đã được hai bên thỏa thuận. Thực hiện giao ước này, các cán bộ Việt Minh ở Côn Minh đã viết truyền đơn bằng tiếng Việt gửi đến Không quân Mỹ để đem rải 8 vạn tờ ở miền Bắc Việt Nam khiến cho uy tín của Việt Minh tăng lên nhanh chóng như một lực lượng của phe Đồng minh chống phát xuýt. Ban không trợ mặt đất của Mỹ đã lập một mạng lưới vô tuyến điện từ Hà Nội đến Sài Gòn theo kế hoạch của OSS và trung úy C. Fenn, phụ trách nhóm tình báo Đồng minh hoạt động ở Việt Nam, được giao nhiệm vụ làm liên lạc giữa OSS và Việt Minh.
Cuối tháng 5/1945, từ Tân Trào, Hồ Chí Minh phái giao liên trao cho A. Patty tại Côn Minh một thông báo về việc quân Nhật xây dựng công sự ở Cao Bằng và trên đường về Hà Nội. Đầu tháng 6/1945, Hồ Chí Minh điện báo cho Patty đã chuẩn bị sẵn sàng hơn 1.000 quân du kích được huấn luyện tốt, tập trung ở Chợ Chu, Định Hóa. Đến giữa tháng 6/1945, qua đầu mối Patty, Hồ Chí Minh biết tin sẽ có một toán quân Mỹ, bao gồm nhân viên kỹ thuật đưa theo thuốc men, lương thực, vũ khí nhẹ do một sĩ quan dẫn đầu sắp được thả dù xuống địa bàn Tuyên Quang và yêu cầu phía Việt Minh chuẩn bị đón. Để phối hợp hiệu quả hơn với quân Đồng minh, Việt Minh đã tiếp nhận trước một số kỹ thuật viên Đồng minh đến Khu giải phóng, chủ yếu là giúp công tác thông tin liên lạc bằng vô tuyến điện. Hồ Chí Minh đã trực tiếp đi khảo sát thực địa tại thôn Lũng Cò, xã Minh Thanh để chọn địa điểm làm sân bay đón quân Đồng minh. Đây là một dải đất rộng chừng 4ha nằm giữa khe núi, bảo đảm cho các chuyến bay lên xuống thuận lợi và dễ dàng vận chuyển hàng hóa. Vì vậy, sân bay dã chiến Lũng Cò đã được gấp rút xây dựng và là sân bay đầu tiên, duy nhất hoạt động trong thời kỳ cách mạng tháng Tám.
Bắt tay vào công việc, những người được giao nhiệm vụ đã huy động nhân dân các xã: Thanh La, Trung Yên, Tân Trào, Tú Trạc và một đơn vị quân Việt Minh tham gia xây dựng sân bay. Lúc đầu dự định phải mất một tuần công việc mới hoàn tất, nhưng với tinh thần cố gắng cao nên chỉ sau 2 ngày phát dọn, san gạt, một sân bay dã chiến đã được hình thành. Sân bay có chiều dài 400m, chiều rộng 20m, đường băng trải dài theo hướng Nam - Bắc. Các cán bộ ở đây đã cắm những lá cờ trắng ở hai bên làm hoa tiêu, loại máy bay vận tải hạng nhẹ L5 của Không quân Mỹ có thể hạ cánh và cất cánh an toàn. Đây là "Sân bay Quốc tế" đầu tiên của Chính quyền Cách mạng Việt Nam. Chiếc máy bay đầu tiên hạ cánh xuống sân bay Lũng Cò có 2 sĩ quan quân Đồng minh mang theo một số vũ khí, lương thực, thuốc men. Sân bay Lũng Cò đã tiếp nhận thành công hàng chục chuyến bay của quân Đồng Minh, do phi công Mỹ lái. Đó cũng là nơi Chính phủ ta thực hiện nhiệm vụ quốc tế là đưa những người Pháp bị Nhật cầm tù ở Tam Đảo trở về nước vào cuối tháng 7/1945.
Theo thỏa thuận giữa Hồ Chí Minh và tướng Mỹ Chennault, tháng 7/1945, một đơn vị tình báo đặc nhiệm mang bí danh "Con Nai" (The Deer Team) thuộc tổ chức OSS (The Office of Strategic Services, tiền thân của CIA Mỹ) đại diện cho quân Đồng Minh đã nhảy dù xuống Tân Trào để phối hợp với Việt Minh chống phát xuýt Nhật. Từ Tân Trào, Hồ Chí Minh trực tiếp đi sân bay Lũng Cò chỉ đạo việc đón máy bay Đồng minh. Cùng các Lê Giản, Đàm Quang Trung, điện đài viên của Mỹ và tiểu đội bảo vệ đến nhà ông bà Ma Văn Yến cách sân bay khoảng 500m. Gia đình ông bà Yến nhường nhà chính cho đoàn. Ở cùng với Hồ Chí Minh, còn có 8 quân nhân Đồng minh, trong số đó có một người được đặt tên Việt Nam là Nguyễn làm nhiệm vụ liên lạc vô tuyến điện với máy bay khi hạ cánh. Sau khi Hồ Chí Minh trở lại Tân Trào, Lê Giản được cử ở lại cùng đại diện quân Đồng minh đón các chuyến bay tiếp theo. Trung tuần tháng 8/1945, chuyến bay cuối cùng đến Lũng Cò chở trung úy Keent, sĩ quan tình báo OSS về nước.
Ngày 16/7/1945, toán quân Đồng minh mang biệt danh Con Nai gồm 5 thành viên đầu tiên đã nhảy dù xuống khu vực Tân Trào gồm: chỉ huy thiếu tá Thomas, trung úy Monfort, trung sĩ Phác (người Việt làm phiên dịch), trung sĩ Lôgort, binh nhất Prunier. Ba trong số 5 thành viên của đội Con Nai khi nhảy dù đã mắc vào cây đa cổ thụ nên Việt Minh phải giúp đưa họ xuống đất an toàn. Ngày 19/7/1945, đội Con Mèo do đại úy Holland chỉ huy cũng nhảy dù xuống Kim Lũng và đến ngày 31/7/1945 đội này lên đường đến khu vực khác lập căn cứ. Nhóm quân Con Nai được bố trí ở trong khu rừng Nà Lừa, cách lán chính của Hồ Chí Minh khoảng 30m về hướng bắc. Lán Đồng minh được làm kiểu nhà sàn, có hai gian, cột bằng gỗ rừng, mái lá cọ. Lán của tổ điện đài cách lán chính khoảng 40m. Lán cảnh vệ dựng cách lán chính 30m và còn một số trạm gác bí mật xung quanh khu rừng. Tiếp đó, nhóm đặc nhiệm "Con Nai", đã cùng các chiến sĩ Việt Minh thành lập "Đại đội Việt - Mỹ" khoảng 200 người, do Đàm Quang Trung (sau này là Thượng tướng, Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân khu Một, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước) chỉ huy, Thiếu tá A.K.Thomas làm cố vấn, nhằm chung mục tiêu chống phát xuýt Nhật.
Thiếu tá Thomas kể lại: "Đầu tiên chúng tôi đi dưới lối đi có mái vòm bằng tre bên trên có một biển hiệu: Chào mừng những người bạn Mỹ của chúng ta. Sau đó chúng tôi gặp Mr Ho, nhà lãnh đạo Đảng. Ông đã đón tiếp chúng tôi rất thân mật. Người ta đã mổ một con bò để tỏ lòng trân trọng chúng tôi và tặng cho chúng tôi một thùng bia Hà Nội thu được sau cuộc tấn công bất ngờ vào một đoàn hộ tống Nhật. Chúng tôi đã đánh một giấc ngon lành trong căn lều tiện nghi bằng tre trong khu rừng trên một quả đồi". Trong những ngày ở Nà Lừa, quân Đồng minh được nhân dân tiếp tế thịt, rau, trứng, măng, có khi còn cả dê hay nai nguyên cặp lộc nhung, trong khi đồng bào chỉ ăn ốc, cá bắt dưới suối với măng ngâm ớt.
Qua những cuộc thảo luận dài với Thomas và Pruynier vào ngày 17, 19/7/1945, Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của Việt Minh trong việc tập hợp các đảng phái chính trị trong sự nghiệp đấu tranh giành lại tự do và độc lập hoàn toàn của Đông Dương. Hồ Chí Minh cũng thông báo đã tuyển lựa 200 du kích để đội Con Nai huấn luyện sử dụng súng cacbin, M.A.S, tiểu liên Tômson, Bazoka, lựu đạn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự bất bình của nhân dân Việt Nam đối với người Pháp và kiên quyết bác bỏ việc để trung úy người Pháp Monfort đi cùng toán quân Mỹ cũng như bất kỳ người Pháp nào đến hoạt động tại đây. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh vẫn yêu cầu Thomas nhờ phía Mỹ báo cho nhà chức trách Pháp biết rằng Mặt trận Việt Minh sẵn sàng nói chuyện với đại diện Pháp, đặc biệt về tuyên bố của Chính phủ Pháp về Đông Dương.
Thiếu tá Thomas nhận xét rằng: "Ông Hồ là người rất hiểu biết và có học, nhưng tôi không hề biết ông là cộng sản. Tôi không biết ông nói được tiếng Nga, tôi cũng không biết ông đã từng đến Nga. Tôi cảm thấy ông rất chân thành. Ông là một người quả quyết. Lúc đó sứ mạng chính của tôi là quân sự thuần tuý. Tôi chỉ hơi nghi ngờ vì binh sĩ của ông sử dụng kiểu chào bắt tay. Nhưng khi tôi nói chuyện đó với Phelland và Tan thì cả hai đều cảm thấy rõ ràng rằng Hồ Chí Minh không phải là một người cộng sản giáo điều, rằng ông là một người yêu nước chân chính".
Cuối tháng 7/1945, do điều kiện làm việc hết sức kham khổ và thiếu thốn với những bữa ăn đạm bạc chỉ có măng rừng chấm muối vừng, cơm chan nước chè xanh nên Hồ Chí Minh bị ốm nặng, tuy đã uống thuốc ký ninh và thuốc cảm do Paul Hoagland, một thành viên đội Con Nai cung cấp nhưng Hồ Chí Minh vẫn lúc tỉnh, lúc mê. Ngày 26/7/1945, Võ Nguyên Giáp đến báo cáo về việc máy bay Đồng minh sẽ thả dù vũ khí cho ta. Dù đang mệt nhưng Hồ Chí Minh vẫn trực tiếp đánh máy công văn và phân công Phạm Quý, Việt Bắc, Minh Đức cùng ba đội công tác đi lập ba đài thông tin lưu động ở Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn nhằm thông báo thời tiết, tìm địa điểm cho máy bay thả dù và cứu phi công khi máy bay gặp sự cố. Theo thỏa thuận với Hồ Chí Minh, trong các ngày 27, 28 và 29/7/1945, thiếu tá Thomas, binh nhất Pruynier cùng 6 người lính Việt Minh đi thị sát đường số 3 và Chợ Chu thuộc tỉnh Thái Nguyên.
Từ ngày 1 đến 6/8/1945, những người lính Đồng minh phối hợp với Việt Minh cùng nhau dựng trại huấn luyện và từ số tân binh đã chọn ra 40 người lính trẻ có triển vọng để huấn luyện ngay. Hồ Chí Minh đã đặt tên cho đội quân này là bộ đội Việt - Mỹ, do Kim Hùng làm đại đội trưởng, thiếu tá Thomas tự nhận làm tham mưu trưởng.
Ngày 7/8/1945, đội Con Nai cùng đại đội Việt - Mỹ chuyển đến Khuổi Kịch, xã Tân Trào để huấn luyện quân sự: từ đo đạc, lau chùi vũ khí, cách sử dụng súng cối, lựu đạn và tập bắn cacbin. Trước khi Quốc dân Đại hội Tân Trào bế mạc, các đơn vị quân sự cùng đội Con Nai chuẩn bị tiến về xuôi. Lúc đó Hồ Chí Minh tuy mệt, nhưng vẫn nằm trên cáng đến gặp Võ Nguyên Giáp và Thomas để chia tay họ. Thomas phát vũ khí đã được đội Con Nai dùng để huấn luyện cho các chiến sĩ và nhắc họ sẵn sàng lên đường.
Ngày 16/8/1945, lực lượng Việt-Mỹ chia hai nhóm cùng hướng về thị xã Thái Nguyên để tấn công quân Nhật: nhóm thứ nhất có Võ Nguyên Giáp, Thomas cùng một trung đội Việt Minh; nhóm thứ hai gồm các thành viên còn lại đi cùng lực lượng Việt Minh do Đàm Quang Trung chỉ huy. Trong chuyến hành quân, tình bạn giữa Võ Nguyên Giáp và Thomas phát triển rất tốt. Thomas kể lại: "Chuyến đi bộ xuyên qua những vùng đồi núi là khoảng thời gian tôi gần gũi nhất với Võ Nguyên Giáp. Lúc đó tôi hơn 30 tuổi và ông có lẽ chỉ hơn tôi 3 tuổi. Ông kể cho tôi nghe rằng vợ và chị dâu của ông đã chết trong nhà tù của Pháp. Ông có tinh thần chống Pháp rất mạnh và không nghi ngờ gì, ông là người rắn rỏi. Người Pháp gọi ông là ngọn núi lửa bị tuyết bao phủ. Ông luôn biết kiềm chế bản thân và rất thông minh, có học. Quân lính của ông tôn thờ ông. Tôi rất mến ông".
Khuya ngày 22/8/1945, trên đường về Hà Nội, khi nghỉ tại Thái Nguyên, tuy còn yếu mệt nhưng Hồ Chí Minh vẫn đi gặp Thomas để hỏi thăm tình hình. Ngày 26/8/1945, Hồ Chí Minh mời cơm trưa A. Patty (đã theo máy bay Đồng minh đến Hà Nội từ ngày 22/8/1945). Cho dù sau đó những người lính Mỹ này đã được lệnh cấp trên "án binh bất động" (ngồi im xem Việt Minh và Nhật đánh nhau), thì đó vẫn là lực lượng nước ngoài duy nhất đứng bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc Cách mạng Tháng Tám. Ngày 9/9/1945, các thành viên đội Con Nai cũng được vào Hà Nội, nơi Việt Minh đã tiếp quản bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám. Cả đội ở trong một ngôi nhà do Việt Minh sắp xếp, họ được đối xử rất tốt và có thể đi thăm Hà Nội như những vị khách du lịch.
Ngày 1/9/1945, Hồ Chí Minh mời Patty và Grelecki tới dự bữa cơm thân mật trước ngày lễ Độc Lập, cùng dự tiệc có Võ Nguyên Giáp, Hoàng Minh Giám. Hồ Chí Minh đã tỏ lòng cảm ơn sự giúp đỡ cho phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam của những người bạn Mỹ trong cơ quan phục vụ chiến lược OSS và cũng không quên nhắc đến những nhân vật đã từng quen biết, gặp gỡ như tướng Chennault, đại tá Helliwell, thiếu tá Thomas, đại úy Holland và hy vọng tinh thần hợp tác hữu ái đó sẽ tiếp tục phát triển.
Vai trò của OSS tại Việt Nam năm 1945 đã trở thành một vấn đề gây tranh cãi. Nhưng Thomas lại nghĩ: "Nhiều người cũng nói rằng vì có sự ủng hộ của chúng tôi Hồ Chí Minh mới giành được quyền lực. Tôi không tin điều đó. Tôi chắc là ông cố gắng sử dụng thực tế là người Mỹ cho ông một số trang thiết bị. Ông đã tác động để nhiều người Việt Nam tin tưởng rằng chúng tôi là bạn Đồng minh. Nhưng có rất nhiều lý do giải thích việc ông giành được quyền lực và đó không phải vì chúng tôi trang bị vũ khí cho trên dưới một trăm con người". Còn nhà sử học Mỹ Stein Tonesson thì nhận định rằng đơn giản sự hiện diện của người Mỹ chỉ có vai trò làm tăng nhuệ khí hơn những thứ khác cho Việt Minh mà thôi.
Trước khi trở về nước, những thành viên của của nhóm "Con Nai" đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi gắm một sứ mệnh đặc biệt: Chuyển giúp thư của Người đến Chính phủ Mỹ, đề nghị Tổng thống Truman công nhận độc lập của Việt Nam! Nhưng tiếc là thời điểm ấy, nước Mỹ chỉ tập trung quan tâm đến châu Âu, bỏ qua khu vực Đông Nam Á. Và lịch sử đã đi theo hướng khác: Hai nước trở thành đối thủ trong cuộc chiến 20 năm.
Theo
Ảnh chụp Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chụp ảnh lưu niệm cùng một số thành viên của nhóm đặc nhiệm Mỹ “Con Nai” năm 1945.

Không có nhận xét nào: