Tố Hữu là nhà thơ, nhà chính trị có vị trí đặc biệt trong đời sống văn hóa, xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ 20. Ông vừa là môn đệ cuồng tín của học thuyết cộng sản Mác – Lê Nin, vừa là tác giả có ảnh hưởng lớn đến trào lưu tư tưởng của miền Bắc xã hội chủ nghĩa và nước Việt Nam thống nhất sau chiến tranh.
Tuy nhiên với tâm trạng hưng phấn thái quá, đôi lúc Tố Hữu không khỏi sa vào những vần thơ siêu thực, không tưởng:
"Chân dép lốp mà lên tàu vũ trụ,
Đời vui thế, khi ta làm chủ..."
(Một nhành xuân)
hay:
"Nhặt tí phân rơi, dọn từng ngọn lá,
Ta nâng niu gom góp dựng cơ đồ...".
(Bài ca xuân 61)
Nhà thơ có biệt tài phóng tác:
Tố Hữu là cây bút có biệt tài hình dung và phóng tác. Khả năng thiên bẩm này như một thế mạnh gắn liền với sự nghiệp thi ca của ông. Trong tác phẩm "Chân dung và đối thoại" Trần Đăng Khoa có tiết lộ chi tiết: trong một lần tâm sự, Tố Hữu đã trải lòng rằng, dù ngồi ở chiến khu Việt Bắc ông vẫn nhào nặn để cho ra những vần thơ như thật về con người và khung cảnh chiến trường ác liệt tận nơi xa xôi mà trước đó ông chưa từng đặt chân đến:
"Hoan hô chiến sỹ Điện Biên
Chiến sỹ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm
Khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non..."
(Hoan hô chiến sỹ Điện Biên)
Từ khi biết đến khả năng "tớ phịa ấy mà" theo như lời Tố Hữu thừa nhận, nhiều nhà phân tích bắt đầu hoài nghi, tìm cách xăm soi tính hiện thực trong mỗi vần thơ của ông.
Không biết Tố Hữu đã có dịp đặt chân đến Ba Lan trước khi sáng tác bài thơ "Em ơi...Ba Lan" hay chưa, nhưng phải công nhận dưới ngòi bút tài hoa của ông, hình ảnh quê hương của nhà soạn nhạc thiên tài Sô Panh hiện lên đẹp đến ngỡ ngàng:
"Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan,
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn"
(Em ơi Ba Lan)
Tố Hữu lại bịa ấy mà! Trong mùa tuyết tan, bầu trời xanh ngắt với nắng vàng rực rỡ có thể được coi là đẹp, nhưng mặt đất thì không hề lãng mạn như trong thơ ông. Ở Ba Lan rất hiếm các con đường thuần cây bạch dương như tại nước Nga. Vào mùa đó, trải dài bên con đường lầy lội, rác đọng đầy dưới lớp tuyết đang tan là những hàng cây khẳng khiu, lá chưa ra, hoa chưa nở. Vậy mà khung cảnh ấy hiện ra trong thơ Tố Hữu đẹp như bức tranh vườn địa đàng.
Khi Tố Hữu dùng các mảng màu "sóng ngời xanh, ngọc bích biển khơi" tô trên bức tranh biển Ban-tích của Ba Lan, người ta lại như thấy ông vẽ biển Địa-trung-hải ở xứ Tây Ban Nha vậy. Thực tế biển Ban-tích chẳng thơ mộng đến thế. Vào mùa hè, khi nắng trời đổ lửa, nhiệt độ không khí tới 30-31 độ C thì nước biển Ban-tích vẫn lạnh căm căm và dẫu căng mắt cũng khó tìm thấy nơi đâu con sóng ngời xanh màu ngọc bích.
Không như văn tả chân, thơ muốn hay phải giàu hình tượng. Ai cũng biết vậy, thế nên chẳng cần thiết phải phê phán tính hiện thực trong thơ Tố Hữu. Trái lại, có không ít ý kiến đánh giá cao trí tưởng tượng phong phú và tài xuất ứng thơ như có phép thần của ông.
Thuở hàn vi, dù chưa một lần đặt chân ra nước ngoài, ngồi ở chốn rừng sâu, Tố Hữu vẫn làm được những bài thơ thấm đẫm hồn Nga, hồn Trung Hoa, hay Bắc Triều Tiên...thì việc ông khua bút viết nên những vần thơ mượt mà, đậm chất Ba Lan cũng chẳng có gì lạ.
Nhiều người tôn vinh Tố Hữu không chỉ là một thi hào chiếm vị trí đỉnh cao trong dòng thơ ca cách mạng mà họ còn coi ông như một nhà tiên tri vô thức. Tuy chưa thể so được với sấm truyền của đấng tiên tri Nostradamus người Pháp hay Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng sống trong thế kỷ 16, nhưng cũng không nên xem nhẹ những lời sấm ngữ bí hiểm được giải nghĩa bằng thơ của Tố Hữu.
Chào 61 đỉnh cao muôn trượng:
Ai đó đã nhận định Tố Hữu lạc quan quá đà khi viết bài thơ "Bài ca xuân 61" với câu thơ "Chào 61 đỉnh cao muôn trượng" trong bối cảnh Miền Bắc đang quằn quại trong đói nghèo và chuẩn bị bước vào cuộc chiến tranh đẫm máu nhất lịch sử dân tộc. Có lẽ không có sức thuyết phục nếu cho rằng "đỉnh cao muôn trượng" mà Tố Hữu nhắc đến ở đây hàm ý nói về thành tựu của sự nghiệp cách mạng đạt được trong năm 1961. Vì khi đó cách mạng Việt Nam và thế giới đang trải qua tình thế ngặt nghèo, đầy rẫy khó khăn.
Một số nhà nghiên cứu coi câu thơ ngạo nghễ đó của Tố Hữu chính là lời tiên đoán về đỉnh cao sự nghiệp của chính ông. Tố Hữu viết "Bài ca xuân 61" khi ông bước vào tuổi 41. Trước đó ít tháng, tại Đại hội lần thứ 3 Đảng Lao động Việt Nam, ông được bầu làm Bí thư trung ương Đảng, đứng đầu Ban Văn hóa Tư tưởng Trung ương. Tưởng thưởng này là sự vinh danh công trạng cho ông với vụ dẹp loạn "Nhân văn giai phẩm".
Bài thơ "Bài ca xuân 61" hừng hực khí thế tiến công cách mạng ra đời khi Tố Hữu đang ngất ngây với danh vọng cá nhân. Vậy chỉ có lý khi vần thơ "Chào 61 đỉnh cao muôn trượng" chính là lời tiên đoán: ở tuổi 61 Tố Hữu sẽ leo lên tột đỉnh quyền lực.
Gần cuối bài thơ ông bỗng cất giọng tự hỏi "Tôi viết cho ai bài thơ 61?". Còn cho ai nữa nếu không phải ông viết cho chính ông! Né tránh trả lời trực diện, ông lại tiếp tục say sưa đắm mình trong sự hưng phấn với "Miền Bắc thiên đường của các con tôi".
Thực tế vào năm 1981, đúng 20 năm sau lời tiên đoán "Chào 61 đỉnh cao muôn trượng, Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng", tại Đại hội lần thứ 5 Đảng Cộng sản Việt Nam, khi Tố Hữu 61 tuổi, ông được bầu vào Bộ chính trị, cơ quan quyền lực cao nhất của đảng, ngay sau đó ông lại được cử giữ trọng trách Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng. Đây là bước đệm chuẩn bị cho ông leo lên nắm giữ cương vị cao nhất là Tổng Bí thư của đảng. Tuy nhiên Tố Hữu làm sao có thể vượt qua được mệnh trời khi ông đã đạt đến "đỉnh cao muôn trượng" vào năm 61 tuổi. Năm 1985 phép thử "Giá, lương, tiền" do chính ông đề xướng thất bại thảm hại, ông bị cách tuột tất cả các chức vụ lãnh đạo đảng và nhà nước. Để rồi sau đó ông tức tưởi an trí dưỡng già trong ngôi biệt thự số 76 phố Phan Đình Phùng, Hà Nội. Những năm cuối đời, ông cay đắng chứng kiến sự sụp đổ có tính hệ thống của chủ nghĩa xã hội thế giới tại Đông Âu và ngay tại Liên Xô thành trì của CNXH.
Viễn cảnh thiên đường nhân loại một thời được Tố Hữu tô vẽ đẹp như mơ bỗng chốc tan biến thành sương khói. Năm 1991 như rút từ tâm can, ông vật vã viết những vần thơ:
"Mới bình minh đó bỗng hoàng hôn...
Ôi kiếp trăm năm được mấy ngày...
Còn đau khổ nào đau khổ hơn..."
(Tiếng Đàn)
Để khóc than cho sự đổ vỡ niềm tin vào lý tưởng mà suốt đời ông tôn thờ đến mê muội.
Ca ngàn năm: Ba Lan, Ba Lan...
Cuối thập niên 70 của thế kỷ trước, sau khi đạt đỉnh cao trào, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới bắt đầu bộc lộ bản chất yếu kém. Đầu những năm 80, chủ nghĩa xã hội chính thức bước vào giai đoạn thoái trào.
Kí ức không phai trong tôi về đất nước Liên Xô và Ba Lan cuối những năm 80 hiện lên như một cuốn phim tư liệu đen trắng. Trôi theo dòng thời gian là hình ảnh từng đoàn người kiên nhẫn xếp hàng trước quầy thực phẩm gần như trống rỗng, các tòa nhà xám xịt trải dài hai bên phố, những gương mặt nông dân lam lũ lắc lư trên chiếc xe ngựa lộc cộc khắp mọi nẻo đường nông thôn, vài ánh đèn leo lét hắt ra từ cửa sổ các căn nhà gỗ chìm trong đêm đông tuyết phủ. Hoàn toàn không có chút nào cái gọi là "sức sống xã hội chủ nghĩa" cho bất kỳ ai huyễn hoặc muốn tuyên truyền về tính ưu việt, về sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
Năm 1980 sự ra đời của Công đoàn Đoàn kết tại Ba Lan đã gióng lên hồi chuông báo hiệu thời kỳ chủ nghĩa xã hội thế giới bước vào cuộc khủng hoảng sâu sắc và toàn diện. Ba Lan, quốc gia giữ vai trò xung yếu trong khối Hiệp ước Quân sự Vác-sa-va, một thực thể đối đầu trực diện với khối quân sự NATO của phương Tây trong chiến tranh lạnh. Với vị trí ấy, Ba Lan chính là tử huyệt của phần châu Âu xã hội chủ nghĩa. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà bài thơ "Em ơi...Ba Lan" lại mặc định những điều tiên đoán vô thức của Tố Hữu về tương lai Ba Lan:
"Khắp quê em, mùa xuân đến rồi
- Dù đêm qua chút tuyết còn rơi".
Lịch sử đã chọn Ba Lan làm điểm tựa, mắt xích bị chặt đứt đầu tiên trong chuỗi sụp đổ có tính dây chuyền của khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô.
Trong khúc khải hoàn "Ca ngàn năm: Ba Lan, Ba Lan", nhân dân Ba Lan đã dũng cảm đứng lên tiến hành cuộc cách mạng dân chủ thay đổi thể chế. Được trải nghiệm bằng cuộc sống mới ngày càng tốt đẹp, hơn ba mươi năm là quãng thời gian đủ dài để khẳng định sự lựa chọn của nhân dân Ba Lan là sáng suốt. Ý nguyện của họ thể hiện qua lá phiếu trong các kỳ bầu cử tự do, minh chứng cho xu thế không thể đảo ngược của tiến trình lịch sử không những ở Ba Lan, ở các nước Đông Âu mà ở tất cả các nước cộng hòa thuộc Liên Xô (cũ) nơi một thời từng được mệnh danh là thành trì vững chắc của chủ nghĩa xã hội thế giới.
Điệp khúc:
"Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn"
Như tiếng đàn xuân một lần nữa lại ngân lên vào cuối bài thơ, gieo vào lòng người đọc viễn cảnh "tuyết tan" với "nắng tràn" mãi ấm áp trong kỷ nguyên "ngàn năm: Ba Lan".
Tác giả Trần Quốc Quân
Ảnh: Tố Hữu thời trẻ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét