"Lịch sử là quan toà công minh chính trực, lịch sử thật vô tư, không bao che, không thiên vị, lịch sử đã, đang và sẽ xét đúng công, luận đúng tội của những ai đã ít nhiều góp phần làm nên nó."
Tác giả: Lê công Sự.
Có một số nhân vật lịch sử người
đương thời không thể nhận diện đúng, mà cần có một độ lùi thời gian; nghĩa là
phải chờ đến sự phán xét của các thế hệ sau. Phạm Quỳnh là một trong những người
có số phận như vậy. Bài viết của chúng tôi nêu lên một số sự kiện quan trọng
trong cuộc đời và những đóng góp của ông cho nền văn hoá Việt Nam, qua đó cung
cấp một số tư liệu để chúng ta nhìn nhận một cách khách quan, đầy đủ, toàn diện
hơn về nhân vật lịch sử vốn gây nhiều tranh luận, nhiều cách đánh giá trái
chiều nhau trong hơn nửa thế kỷ qua.
1. Phạm Quỳnh với những bước
thăng trầm của lịch sử Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX.
Phạm Quỳnh sinh ngày 17 tháng 12
năm 1892 tại nhà số 1, phố Hàng Trống, Hà Nội, quê gốc ở làng Hoa Đường (1), xã
Lương Ngọc, phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương - một làng có truyền thống hiếu học,
khoa bảng. Thân phụ là Phạm Hữu Điền, theo nghiệp thi cử và đỗ tú tài, kết
duyên cùng bà Vũ Thị Đoan. Sinh được Phạm Quỳnh chín tháng thì bà Đoan mất. Khi
Quỳnh lên chín tuổi, ông Điền cũng qua đời nốt, bé Quỳnh phải sống nhờ vào bà
nội.
Thuở nhỏ, cậu bé Quỳnh thân hình
yếu ớt, sài đẹn, lên đậu mùa, mặt rỗ hoa (xem 11). Lớn lên, cậu theo học ở
trường Tiểu học Pháp - Việt ở phố Hàng Đào, sau được nhận vào trường Thông Ngôn
(Ecole des Interpretes)2. Tại đây cậu bé Quỳnh có cơ hội tiếp nhận nền văn hoá
Pháp. Năm 1908, Phạm Quỳnh tốt nghiệp trường này với danh hiệu thủ khoa. Sau
đó, được nhận vào làm thủ thư và thông ngôn ở trường Viễn Đông Bác Cổ (Ecole
Francaise d’Extrême Orient) - tại đây, chàng thanh niên ham học có điều kiện
đọc nhiều sách và học thêm chữ Hán. Đi làm được một năm sau (1909) thì Phạm
Quỳnh lấy một thôn nữ tên là Lê Thị Vân (1892- 1953) - người thôn Nhân Thục,
làng Thọ Vực tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh. Cô Vân không biết
chữ, thay vào đó có trí nhớ tuyệt vời, thuộc khá nhiều câu ca, bài hát dân
gian, truyện nôm - chính điều này đã tạo nguồn cảm hứng sáng tạo và cung cấp
nguồn tư liệu đồi dào, phong phú cho Phạm Quỳnh viết các bài khảo luận về văn
hoá dân gian Việt Nam mà điển hình là Tục ngữ ca dao và Truỵên Kiều (1, 124 -
216) được công chúng thời đó nhiệt liệt hoan nghênh.
Từ năm 1913, Phạm Quỳnh bắt đầu
sự nghiệp văn chương bằng các bài dịch thuật văn học và triết học đăng trên
Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh. Năm 1917, với sự bảo trợ của Louis
Marty - trưởng phòng chính trị Phủ toàn quyền Đông Dương, ông đứng ra thành lập
và kiêm chủ bút tờ Nam Phong tạp chí với các bút danh Thượng Chi, Hoa Đường,
Hồng Nhân. Tạp chí ra số đầu tiên ngày mồng 1 tháng 7 năm 1917, kể từ đó đều
đặn mỗi tháng một kỳ, viết bằng chữ quốc ngữ, dưới tên Nam Phong đề hàng chữ
“Thông tin Pháp”, (L’information francaise). GS. Trần Thanh Đạm cho rằng “chủ
đích của tạp chí này là phục vụ cho chính sách của thực dân Pháp… do toàn quyền
Albert Saraut chủ xướng dưới chiêu bài “Hợp tác Pháp - Nam”, nhằm củng cố chế
độ thuộc địa, xoa dịu phong trào yêu nước sôi nổi đầu thế kỷ XX… dung hoà văn
hoá Đông - Tây, kết hợp truyền bá văn hoá, văn minh “Đại Pháp” với phục hồi các
“quốc tuý”, “quốc hồn” của văn hoá phong kiến bằng công cụ là chữ quốc ngữ”
(13, 52). Nhưng với học thuật và lòng yêu nước, chủ bút đã khéo léo lái nội dung tạp chí sang
hướng truyền bá kiến thức chung cho đông đảo nhân dân Việt Nam đang trong
tình trạng “đói về đời sống tinh thần”. Do vậy, ngoài một số bài khảo luận,
dịch thuật nhằm giới thiệu danh nhân văn hoá và văn minh Pháp, tạp chí chủ yếu
đăng tải nhiều chủ đề khác nhau: thi ca, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, du ký,
khảo luận chính trị- triết học, bình luận văn học, giới thiệu tôn giáo, cung
cấp tư liệu lịch sử Thế giới và Việt Nam, truyền bá khoa học thường thức,
v.v... Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại đã gọi tạp chí này
là một “bộ bách khoa” quả thật không phải là không có căn cứ. Nhiều trí thức
thời đó cũng thừa nhận rằng, họ đã cập nhật được khá nhiều thông tin văn hoá-
chính trị - xã hội, học được nhiều kiến thức khoa học bổ ích từ tạp chí này.
Với uy tín học thuật và tài tổ chức, Phạm Quỳnh nhanh chóng tập hợp được một
đội ngũ cộng tác viên gồm nhiều cây bút có tri thức và chính kiến khác nhau
(tân học và cựu học, cách mạng và trung lập) như: Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Trác,
Mân Châu, Nguyễn Văn Bân, Đông Hồ, Mộng Tuyết, Tương Phố, Trần Quang Huyền, Nam
Minh, Hoàng Tích Chu, Vũ Đình Long, Nguyễn Trường Tam, Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn
Phan Lãng, Dương Bá Trạc, Phạm Tuấn Tài, Lê Mạnh Trinh, Từ Diễn Đồng, Trần Huy
Liệu, Nguyễn Văn Năng, v.v. Nam Phong tồn tại đến tháng 12 năm 1934 thì đình
bản, lý do chủ yếu là Phạm Quỳnh không làm chủ bút nữa, nên tờ báo đi dần vào
tình trạng kém chất lượng, không còn sức lôi cuốn, hấp dẫn độc giả.
Ngày 2 tháng 5 năm 1919, Phạm
Quỳnh sáng lập và là tổng thư ký Hội Khai trí Tiến Đức. Năm 1922, với tư cách
là đại diện cho Hội Khai trí Tiến Đức, ông được cử sang Pháp dự hội chợ triển
lãm Marseille, xong hội chợ, ông lên Paris ở lại ba tháng, đi diễn thuyết nhiều
lần trước các viện khoa học, tổ chức xã hội và công chúng Pháp. Tiếng tăm ông
vì thế ngày càng được lan truyền và dân gian xếp ông đứng đầu bốn vị Tây học
đương thời: Quỳnh (Phạm Quỳnh), Vĩnh (Nguyễn Văn Vĩnh), Tố (Nguyễn Văn Tố), Tốn
(Phạm Duy Tốn).
Ngoài việc quản lý tờ Nam Phong
và viết sách, báo, từ năm 1924 - 1932, Phạm Quỳnh còn giành thời gian thỉnh
giảng tại các khoa Bác Ngữ Học, Văn hoá, Ngữ Ngôn Hoa - Việt của Trường Cao
đẳng Hà Nội, trợ giúp báo France - Indochina. Từ năm 1925 - 1928, Phạm Quỳnh là
hội trưởng hội Trí tri Bắc Kỳ. Năm 1930, Phạm Quỳnh đề xướng chủ thuyết lập
hiến, đòi hỏi người Pháp phải thành lập hiến pháp để quy định rõ ràng những
quyền cơ bản của nhân dân, vua quan Việt Nam và chính quyền bảo hộ. Do vậy, ông
được coi là người theo thuyết quân chủ lập hiến. Năm 1931, ông được giao chức
phó hội trưởng Hội địa dư Hà Nội. Năm 1932, giữ chức tổng thư ký Uỷ ban cứu trợ
xã hội Bắc Kỳ.
Tháng 11 năm 1932, khi Bảo Đại
lên làm vua thay Khải Định. Để canh tân đất nước, vị Vua tây học này quyết định
thay một số lão thần Thượng Thư cựu học bằng các Thượng Thư trẻ Tây học, Phạm
Quỳnh nằm trong số được lựa chọn. Với khát vọng chính trị thiết lập một thể chế
quân chủ lập hiến, Phạm Quỳnh nhận lời mời; ông vào kinh đô Huế tham gia việc
triều đình, nhậm chức Đổng lý ngự tiền văn phòng, rồi Thượng thư bộ học, cuối
cùng là Thượng thư bộ lại (xem 17), đứng đầu bộ máy triều Đình Huế. Ông được
Bảo Đại xây cho một biệt thự hai tầng trong khuôn viên rộng rãi thoáng mát cạnh
bờ sông An Cựu. Để tưởng nhớ quê cha đất tổ, ông đặt tên cho biệt thự là Hoa
Đường. Tại đây, gia đình ông sống giản dị, bình đẳng với cộng đồng, thuận hoà,
êm ái, con cái lớn lên trong tình thương yêu cha mẹ và được giáo dục một cách
chu đáo theo phương châm của một gia đình trí thức điển hình thời đó.
Trên cương vị chính trị mới, Phạm
Quỳnh đã làm hết sức mình cho sự nghiệp canh tân nền giáo dục nước nhà theo
hướng dung nạp khoa học phương tây và Đạo học phương Đông. Lịch sử không ghi
chép nhiều về những công việc cụ thể mà Phạm Quỳnh đã làm ở triều đình Huế,
song qua lời đánh giá của Thống sứ Trung Kỳ Healewyn trong Báo cáo ngày mồng 8
tháng 1 năm 1945 gửi cho đô đốc Decoux và cho tổng đại diện Mordant: “Vị thượng thư này
vốn đã chiến đấu suốt cuộc đời mình bằng ngòi bút và bằng lời nói, không bao
giờ bằng vũ khí, cho sự bảo trợ của Pháp và cho việc khôi phục quyền hành của
triều đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc, Trung, Nam) và cho việc người Việt Nam nắm
trong tay vận mệnh của chính mình… Những yêu sách mà Phạm Quỳnh đòi hỏi trở lại
việc chấp thuận một chế độ tự trị hoàn toàn cho hai xứ bảo hộ (Trung Kỳ và Bắc
Kỳ), khước từ chế độ thuộc địa ở Nam Kỳ và thành lập một quốc gia Việt Nam. Tôi
xin lưu ý ngài một điều là, dưới vẻ bề ngoài nhã nhặn và thận trọng, con người
đó là một chiến sĩ không lay chuyển nổi cho nền độc lập của Việt Nam và đừng
hòng có thể làm dịu những tình cảm yêu nước chân thành và kiên định của ông ta
bằng cách bổ nhiệm ông ta vào một cương vị danh dự hoặc trả lương một cách hậu
hỹ. Cho tới nay, đó là một địch thủ thận trọng nhưng cương quyết chống lại sự
đo hộ của nước Pháp và ông ta có thể sớm trở thành một kẻ thù không khoan
nhượng”, (dẫn theo 22) chúng ta phần nào hình dung được diện mạo và quan
điểm chính trị của Phạm Quỳnh trong hơn một thập kỷ giữ hai chức vụ Thượng Thư
quan trọng bộ máy Triều Đình Nhà Nguyễn.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo
chính Pháp. Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim thành lập, Phạm Quỳnh quyết định
rút khỏi vũ đài chính trị, cáo quan về sống ẩn dật ở biệt thự Hoa Đường với ý
nguyện sẽ trở lại nghiệp văn chương thời trước. Nhưng ý nguyện chưa có cơ hội
trở thành hiện thực thì ngày 23 tháng 8 năm 1945, khi chính quyền Bảo Đại thoái
vị, ông bị Việt Minh bắt giam ở lao Thừa Phủ, Huế, rồi mất đột ngột sau đó một
thời gian. Cái chết (địa điểm, thời gian) của ông dường như không ai dám đứng
ra làm chứng, do vậy cho đến nay vẫn đang là một bí ẩn lịch sử với nhiều giả
thiết và kịch bản khác nhau. Nói về cái chết bất ngờ đó, GS. Trần Thanh Đạm
viết: “Cái chết của Phạm Quỳnh là một tai nạn. Ông là nạn nhân đáng tiếc của
tính tự phát lịch sử, kể cả lịch sử cách mạng. Vì cách mạng có phần tự giác mà
cũng có phần tự phát, ngoài ý muốn của các nhà cách mạng chân chính” (13, 53).
Hơn mười năm sau, người ta tìm
thấy di hài ông tại Làng Hiền Sĩ3, Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên và mang về cải
táng ngày 9 tháng 2 năm 1956 tại khuôn viên chùa Vạn Phước trên đường Điện Biên
Phủ, thành phố Huế - nơi khi còn sống, ông thường lui tới vãn cảnh và đọc sách
(xem 3 và 22). Ký giả, Nhà hoạt động xã hội, Giảng sư cao đẳng, vị Thượng thư
triều Nguyễn yên nghỉ tại ngôi chùa này hơn nửa thế kỷ qua để chứng kiến bao
cơn sóng gió dư luận khen chê của người đời.
2. Những đóng góp cơ bản của Phạm
Quỳnh cho văn hoá Việt Nam
trong bối cảnh giao thoa, hội nhập văn hoá Đông - Tây.
Đánh giá về sự cống hiến của Phạm
Quỳnh cho nền văn hoá nước nhà không còn cách nào khác là phải dựa trên việc
nghiên cứu những trước tác của ông. Hơn ba mươi năm dấn bước trên con đường văn
nghiệp và hoạt động giáo dục - chính trị - xã hội, Phạm Quỳnh đã lao động sáng
tạo không mệt mỏi.Dường như linh tính mách bảo ông về sự đoản mệnh của mình,
nên dù bận rộn công việc như thế nào, cũng luôn tranh thủ mọi thời gian để
viết. Vì vậy, ông đã để lại một di sản văn hoá khá phong phú thuộc nhiều thể
loại khác nhau:
Về dịch thuật: ông đã dịch một số
tác phẩm như Phương pháp luận (Descartes); Sách cách ngôn (Epictete); Đời đạo
lý (P. Carton), Le Cid, Horace (Corneille); Thơ Baudelaire, v.v. Tuy không được
đào tạo tại Pháp, nhưng Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh được coi là hai dịch giả
nổi tiếng đương thời cả về bút pháp lẫn văn phong. Sự chuyển ngữ của các ông từ
Pháp văn sang Việt ngữ những tác phẩm tiêu biểu của nền văn học Pháp đã góp
phần chấm dứt sự lệ thuộc của độc giả Việt Nam đương thời vào Văn đàn và Ngôn
ngữ của phái Tân Văn (Trung Quốc) mà hai vị đứng đầu là Khang Hữu Vi và Lương
Khải Siêu. Bạn đọc Việt Nam
có dịp làm quen với nền văn hoá phương Tây qua ngôn ngữ dễ đọc, dễ hiểu, những
địa danh, tên người gần với nguyên bản4. Hơn ai hết, Phạm Quỳnh hiểu dịch thuật
lúc đó là việc làm nhất cử lưỡng tiện, nó không đơn thuần là sự chuyển ngữ mà
chủ yếu là giới thiệu văn hoá, văn minh phương Tây cho dân chúng Việt Nam mấy
lâu nay chìm trong bóng tối của sự lạc hậu về mọi phương diện kinh tế, chính
trị, giáo dục, v.v.
Về khảo luận: Phạm Quỳnh đã viết
nhiều bài giới thiệu chân dung danh nhân văn hoá châu âu và các bài phê bình
văn học Pháp (Văn học nước Pháp; Một nhà văn tả thực: Guy de Maupassant;
Descarrtes, Tổ triết học nước Pháp; Tư tưởng Keyserling; Lịch sử và học thuyết
Voltaire; Lịch sử và học thuyết Rousseau; Lịch sử và học thuyết Montesqiueu;
Lịch sử và học thuyết Berson; Văn minh luận; Đông Á, Tây Âu, hai văn minh có
thể dung hoà được không?; Bàn phiếm về văn hoá đông Tây, v.v). Những bài khảo
luận của ông không ngoài mục đích cung cấp tư liệu cho độc giả Việt Nam những
kiến thức văn hoá Châu âu nói chung, văn hoá Pháp nói riêng, qua đó có một cái
nhìn tham chiếu để học hỏi phương pháp, tư tưởng, bút pháp, văn phong vươn lên
cùng thời đại. Những bài khảo luận của ông về các nhà khai sáng Pháp thực sự đã
khai mở cho giới trí thức Việt Nam
đương thời về vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền, cung cấp cho họ những kiến
thức về chính trị trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ thực dân và phong kiến.
Về văn du ký: Có thể nói, Phạm
Quỳnh là người khai mở con đường cho tmột thể loại văn học mới - văn du ký, mà
phái sinh hiện đại của nó là tuỳ bút, ký sự, phóng sự, ghi chép. Bằng những
điều “mục sở thị” trong những chuyến thăm thú danh lam thắng cảnh đất nước và
du hành sang Pháp, sang Lào, Phạm Quỳnh đã khéo mượn cảnh nói lên tình người.
Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam ký, Trẩy chùa hương, Pháp du hành trình nhật
ký, Du lịch xứ Lào, v.v. là những áng văn qua đó chúng ta không chỉ thấy được
tâm tình con người, cảnh đẹp thiên nhiên của những vùng đất nơi ông đã đi qua
mà còn hiểu được tâm tư tình cảm của tác giả đối với thiên nhiên, chính kiến
của tác giả đối với những sự kiện miêu tả, nói cách khác, Phạm Quỳnh đã khéo
mượn cảnh để lột tả tâm trạng con người.
Không chỉ mê say văn hoá phương
tây, với vốn am hiểu chữ Hán của mình, Phạm Quỳnh còn bàn về Phật giáo (Phật
giáo lược khảo) và Nho giáo (Khổng giáo luận). Phật giáo lược khảo là một trong
những bài khảo luận phá cách của Phạm Quỳnh, vì phong cách viết của ông khi
giới thiệu học thuyết thường ngắn gọn. Về phương diện nội dung truyền đạt, đây
có thể xem như một giáo trình đại cương về phật học, trong đó học giả Phạm
Quỳnh đã trình bày vấn đề theo phong cách khoa học của phương tây, ông đã giới
thiệu vấn đề phật giáo bắt đầu từ Phật tổ sự tích đến Phật lý uyen nguyên và
kết luận bằng phần Phật giáo lịch sử. Cuối bài khảo luận, thay vì nêu nhận định
của mình, Phạm Quỳnh đã khôn khéo dịch một số câu của Gastor Riou trong cuốn
L’Ennui de Bouddha (Nỗi buồn của Phật giáo), với ngụ ý ca ngợi sự ước chế dục
vọng, tăng lòng vị tha, từ bi, bác ái của một tôn giáo luôn hướng con người đến
một thế giới chung sống hoà bình (1, tr. 468 - 571).
Toàn bộ những gì ông viết chỉ
nhằm một mục đích là truyền bá, làm giàu và phong phú hoá Tiếng Việt (chữ quốc
ngữ) với phương châm: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta
còn” (1,118) - đó là nguyên nhân để ông viết một loạt bài: Văn quốc ngữ; Chữ
Nho với văn quốc ngữ; Bàn về quốc học; Quốc học với quốc văn; Tục ngữ ca dao;
Truyện Kiều, v.v. trong đó ông khẳng định: “Tiếng Việt ta hay lắm, …là một thứ
tiếng êm như ru, vui như hát, mỗi đánh vần ra năm dấu đọc thành sáu giọng khác
nhau, như trong cung đàn vậy, tưởng không có mấy thứ tiếng hoà bình êm ái bằng
tiếng ta…Dù học chữ Tây hay học chữ Tàu, ta cũng chớ quên bỏ tiếng tổ quốc, là
cái từ khi lọt lòng ra đã học nói, và đến khi hấp hối chết cũng còn nói. Ta nên
nhớ lấy câu ca dao của nước nhà: Ta về ta tắm ao ta, Dù trong dù đục ao nhà vẫn
hơn” (1, 170).
Qua việc nghiên cứu những trước
tác của Phạm Quỳnh, chúng ta có thể nhận thấy xu hướng chủ đạo trong văn chương
ông là hưởng ứng phong trào hội nhập văn hoá Đông - Tây, học hỏi phương pháp
luận khoa học và những điều hay lẽ phải trong nền văn minh phương Tây. Trong
bài Bàn về quốc học, ông cho rằng “nếu ta muốn tiến hoá cho bằng người, thì ta
cũng phải làm một cuộc cách mạng về tinh thần như người âu Tây thế kỷ 16… Vậy
thời việc cần cấp bây giờ là phải đem cái quan niệm khoa học của Âu Tây mà phân
tích cho tinh tường… rồi ta cứ theo đó mà học, không cần phải bàn làm chi… Phải
mượn phương pháp của người để tự bồi bổ cho mình… Đem hình thức của khoa học
Tây phương mà ứng dụng vào nội dung của học thuật Đông phương” (1, 90 - 91-
92).
Chủ trương học theo phương pháp
luận và nội dung khoa học phương Tây, song Phạm Quỳnh cũng không xem nhẹ vấn đề
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.Theo ông, chữ Nho tuy đã giúp văn
hoá nước nhà có một nền học vấn hơn hai thiên niên kỷ qua, nhưng hiện nay đã
trở thành một thứ “tử ngữ”, nên không nên theo nó nữa, còn chữ Tây phương giúp
ta hiểu được nền văn minh hiện đại, nhưng vẫn là thứ tiếng vay mượn của người.
“Học ngôn ngữ văn tự nước ngoài - Phạm Quỳnh viết - chẳng qua như con yểng học
nói, lắp đi lắp lại nhiều lần rồi nó quen miệng, quen tai, quen trí não đi,
thành những câu sáo sẵn”, mà “nói năng đã đú đớ thời tư tưởng sao cho rạch ròi
được, thần trí tất đến mờ ám đi” (1, 98).Từ cách đặt vấn đề như vậy, cùng với
những học giả khác như Nguyễn Hữu Tiến, Dương Bá Trạc, Nguyễn Bá Trác, Trần
Trọng Kim, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Trọng Thuật, ông gắng công tuyên truyền và phổ
biến chữ quốc ngữ, bởi theo ông “làm người Việt Nam phải nên yêu, nên quý tiếng
nước mình. Phải đặt quốc văn của mình lên trên cả chữ Tây, chữ Tàu. Nhưng yêu
quý tiếng nước mình không có nghĩa là ruồng bỏ tiếng nước ngoài. Yêu quý tiếng
nước mình là phải khéo léo lợi dụng tiếng nước nggoài để làm cho tiếng quốc âm
mình giàu có thêm lên” (1, 75). Do một lòng yêu quý Tiếng Việt như vậy nên khi
nhậm chức Thượng Thư bộ học, việc đầu tiên ông làm là cho dạy chữ quốc ngữ ở
bậc tiểu học thay cho tiếng Pháp trước đó.
Có thể nói, Phạm Quỳnh là một
trong những người khởi xướng và đi tiên phong trong phong trào tiếp thu văn hoá
hiện đại đồng thời phải biết giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc - một
chủ trương có tàm chiến lược mà ngày nay Đảng ta rất quan tâm. Trong xu hướng
toàn cầu hoá hiện nay, muốn hội nhập và phát triển chúng ta phải biết học hỏi
cái hay của người, nhưng cũng phải biết giữ gìn những nét đẹp của ch truyền
thống, trong đó tiếng việt đóng vai trò cơ bản. Hãy nghe ông phát biểu trước
Nghị viện Pháp: “Dân tộc Việt Nam
chúng tôi không thể ví như một tờ giấy trắng được đâu. Chúng tôi là một cuốn
sách dầy đầy những chữ viết bằng thứ mực không phai đã hằng mấy mươi thế kỷ
nay. Quyển sách cổ ấy có thể đóng theo kiểu mới cho phù hợp thời trang nhưng
không thể đem một thứ chữ ngoài in lên những dòng chữ cũ được. Vấn đề là phải giáo
dục người Việt Nam thế nào cho vừa truyền được học thuật cao thượng đời nay vừa
không đến nỗi khiến chúng tôi mất giống đi, mất cái quốc tính của chúng tôi đi,
làm thành ra một dân tộc vô hồn, không còn có tinh thần đặc sắc gì nữa như mấy
thuộc địa cổ của người Pháp kia” (dẫn theo 17), chúng ta đủ thấy ông có lạp
trường kiên định như thế nào để bảo vệ chủ nghĩa dân tộc.
Bản thân Phạm Quỳnh và lối sống
của ông là một tấm gương mẫu mực trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc. Là người nói tiếng Pháp thông thạo, am hiểu rộng văn hoá phương tây,
nhưng ông luôn mặc y phục dân tộc (khăn đen, áo dài). Khi sang Pháp diễn
thuyết, ông vẫn mặc bộ y phục truyền thống đó làm cho giới trí thức Pháp trầm
trồ khen ngợi. Trí giả Tây học này sống mẫu mực theo nguyên tắc “dĩ thân vi
giáo” , “tu thân, tề gia, trị quốc” của nho học truyền thống; theo lời kể của
những người thân thì dù có dời chỗ ở đi đâu ông cũng kê bàn học ở gần gian thờ
tổ tiên và trong phòng làm việc luôn treo bức hoành phi có hai chữ “Trung -
Hiếu” (bằng hán tự), điều đó thể hiện ông là người luôn nặng lòng với Nước và
Nhà.
Tuy đứng đầu “tứ trụ Tây học” của
nước nhà thời đó, nhưng Phạm Quỳnh cũng luôn tỏ ra là một nho sĩ uyên thâm,
điều này thể hiện qua việc ông làm hoành phi câuđối “Thổ nạp Âu- Á” (hiện đang
treo ở chùa Vạn Phước), các hoành phi câu đối mà ông phúng viếng Quê hương khi
làm quan triều nguyễn có dịp về thăm quê. Theo Nguyễn Phúc Vĩnh Ba, không phải
ngẫu nhiên mà Phạm Quỳnh đặt tên tờ báo do mình làm chủ bút là Nam Phong; tên Nam
Phong (Gió Nam) lấy ý tưởng bài thơ “Nam Phong ca” 5 trong Kinh Thi, do vậy nó
có một ý nghĩa chính trị, đó là ngọn gió với hy vọng sẽ mang đến cho dân Việt
đương thời nhiều lợi ích. Theo địa lý Việt Nam , ngọn gió này tuy mang một ít
hơi nóng (thổi từ Lào sang) nhưng mang lại nhiều giá trị kinh tế cho nhân dân
trong việc đồng áng, mùa màng và có thể theo ý tưởng của Phạm Quỳnh, nó sẽ mang
đến nhiều điều tốt đẹp cho phong trào độc lập dân tộc.
3. Đôi điều nhận định của dư luận
xã hội về Phạm Quỳnh.
Những phân tích trên của chúng
tôi chỉ là những nét chấm phá ban đầu trong quá trình phác hoạ một chân dung
trọn vẹn của nhà văn hoá Phạm Quỳnh. Hơn nửa thế kỷ sau cái chết của ông, đã có
khá nhiều học giả cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, đánh giá về ông, và sự đánh giá
đó thật khác nhau, đúng như GS. Trần Thanh Đạm nhận định: “Hơn 60 năm nay, ông
là một câu hỏi lớn, một mối hồ nghi trong dư luận và nhận thức của bao nhiêu
người ở bên này và bên kia chiến tuyến. Giằng xé đó làm cho vấn đề Phạm Quỳnh
càng trở nên rắc rối, phức tạp thêm. Cách mạng khó giải thích, thanh minh, phản
cách mạng muốn khai thác, lợi dụng. Nỗi đau của gia đình ngày càng lớn vì sự
oan khuất của ông” (13, 54).
Khi Phạm Quỳnh còn sống, giữa ông
và giới trí thức đã diễn ra một số tranh luận xoay quanh cả vấn đề học thuật
lẫn quan điểm chính trị, Phạm Quỳnh luôn giữ thái độ bình tĩnh, trung dung, có
lẽ ông nghĩ rồi dần dần người đời sẽ hiểu rõ ông. Sau khi tạ thế, Nhà nghiên
cứu Vũ Ngọc Phan có lẽ là người chấp bút đầu tiên bình luận về Phạm Quỳnh một cách
cơ bản nhất (xem 21). Theo Vũ Ngọc Phan, Phạm Quỳnh là người xây đắp cho nền móng
quốc văn, còn tạp chí Nam Phong xứng đáng là bộ bách khoa của văn hoá Việt Nam thời đó.
Nhà văn Nguyễn Công Hoan, trong Đời viết văn của tôi, đã so sánh hình tượng
Phạm Quỳnh trên sân khấu chính trị với Kép Tư Bền trên sân khấu kịch, cả hai họ
đều miễn cưỡng đóng vai trong tình trạng bi thảm “bề ngoài cười nụ, bên trong
khóc thầm” mà thôi (xem 7).
Đánh giá nhân vật lịch sử là việc
làm thuộc phạm trù dư luận xã hội, phụ thuộc vào điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan, do vậy chúng ta không thể trách cứ bất kỳ ai mà cứ việc để cho
lịch sử công tâm phán xét. Nhưng theo chúng tôi, không một sự đánh giá nào có
thể khách quan, chính xác, ngắn gọn hơn chính lời Phạm Quỳnh tự bạch: “Tôi là
con người của buổi giao thời…, Pháp thì cho tôi là người chống đế quốc đến cùng
và Việt Minh thì lại coi tôi là tay sai của Pháp…” (15, 15).
Về một nhân vật lịch sử mà có
nhiều cách đánh giá khác nhau cũng là lẽ đương nhiên, nhưng đánh giá trái chiều
nhau thì cũng là trường hợp hạn hữu. Trong bài báo Công minh lịch sử và công
bằng xã hội, GS. Văn Tạo, nguyên viện trưởng Viện nghiên cứu lịch sử Việt Nam
đã đề xuất quan điểm cần minh bạch hoá một số nhân vật, sự kiện lịch sử Việt
Nam mà từ trước đến nay do nhiều lý do khác nhau chúng ta hiểu chưa rõ, chưa
đúng, trong đó có trường hợp “chủ báo Nam Phong:Phạm Quỳnh” (xem 16).
Trước đây, vấn đề Phạm Quỳnh được
nhìn nhận khá thận trọng. Công cuộc đổi mới mà Đại Hội VI (12-1986) Đảng Cộng
Sản Việt Nam khởi xướng đã đem lại một cách nhìn khách quan, cởi mở hơn về lịch
sử, nhất là giai đoạn Triều Nguyễn. Và những gì mà giới học giả đang làm hôm
nay để hoá giải cho chủ bút báo Nam Phong nhằm thực hiện “công minh lịch sử và
công bằng xã hội”, không gì khác hơn việc thực hiện lời tiên tri của Hồ Chí
Minh khi nghe tin không hay về vị Thượng Thư triều Nguyễn: “Cụ Phạm là con
người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại sau này”. Đúng vậy, lịch sử là
quan toà công minh chính trực, lịch sử thật vô tư, không bao che, không thiên
vị, lịch sử đã, đang và sẽ xét đúng công, luận đúng tội của những ai đã ít
nhiều góp phần làm nên nó.
Lê công Sự - Tiến sỹ Triết học. Giảng viên Đại học Hà Nội.
(1) - Có tài liệu nói là làng Thượng Hồng)
Tài liệu tham khảo
1. Phạm Quỳnh, Luận giải văn học và triết học, Nxb. Văn hoá thông tin, Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, 2004.
2. Đào Duy Anh, Nhớ nghĩ chiều hôm, Nxb. Trẻ Tp. Hồ Chí Minh 1989.
3. Xuân Ba, Những uẩn khúc trong cuộc đời ông chủ báo Nam phong, Tiền phong chủ nhật, số 46 ra ngày 13/11 /2005.
4. Huệ Chi, Đỗ Đức Hiểu, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá, Từ điển văn học, Nxb. Thế giới 2004.
5. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Văn học dân gian, tập I, Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội 1972.
6. Vũ Ngọc Khánh (chủ biên), Từ điển văn hoá Việt
7. Nguyễn Công Hoan, Đời viết văn của tôi, Nxb. Văn học, Hà Nội 1971.
8. Đỗ Lai Thuý, Đọc lại tạp chí Nam phong và Phạm Quỳnh, Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội số 6 năm 2006.
9. Đỗ Bình Trị, Văn học dan gian Việt Nam, tập I, Nxb. Giáo dục, Hà Nội 1991.
10. Nguyễn Thị Thanh Xuân, Phê bình văn học Việt
11. Khúc Hà Linh, Phạm Quỳnh - Đa cảm, đa tình, nặng lòng với quê hương, tạp chí Văn nghệ Hải Dương, số 93, tháng 3 /2010, tr.16 - 23.
12. Khúc Hà Linh, Phạm Quỳnh - Người canh tân văn hoá làm sống lại hồn nước, báo Giáo dục & Thời đại ra ngày 30 /4 /2010, tr. 41.
13.Trần Thanh Đạm, Nhà chính trị và nhà văn hoá Phạm Quỳnh, tạp chí Hồn việt, số 15, tháng 9 /2008, tr. 52 - 54. Xem lại trên http:// www. Pham Ton’s Plog.
14. Nguyễn Đình Chú, Trịnh Vĩnh Long, Báo chí và văn chương qua một trường hợp:
15. Phạm Tuyên, Giải thưởng lớn nhất là có chỗ đứng trong quần chúng, (phỏng vấn nhạc sĩ Phạm Tuyên của Trần Mỹ Hiền đăng trên báo An ninh Thế giới, số 859, ngày 15 /5 /2010, tr. 14-15)
16. GS. Văn Tạo, Công minh lịch sử và công bằng xã hội, báo Nhân dân số 19 (379), 5/5 /1996.
17. Nguyễn Phúc Vĩnh Ba, Nhà văn hoá Phạm Quỳnh, http:// Vietsciences, mục tiểu sử danh nhân, 20/7/2008.
18. Trần Văn Chánh, Thử nhận dạng lại chân dung nhân vật Phạm Quỳnh, tạp chí Nghiên cứu và phát triển (Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên - Huế), số 2 (55) quý 2/2006. Xem lại trên http:// www.Vietsciences, mục Tiểu sử danh nhân, 24/ /10 /2006.
19. Phạm Tôn, Phạm Quỳnh - Người nặng lòng với nhà, tạp chí Nghiên cứu và phát triển (Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên - Huế), số 3 (56) quý 3/2006. Xem lại trên http:// www.Vietsciences, mục Tiểu sử danh nhân, 24/10 /2006.
20. Nguyễn Xuân Kính, Nên điều chỉnh một số nhận xét trong các giáo trình đại học về lịch sử sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian, http://www.ncvanhoa.org.vn.
21. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, Nxb. Vĩnh Thịnh, Hà Nội 1951.
22. Bách khoa toàn thư mở - Wikipedia, http:// phamquynh.
Bài liên quan:Lá Số Phạm Quỳnh.
4 nhận xét:
Thank you, I've just been looking for information about this topic for a long time and yours is the greatest I have found out so far. However, what about the bottom line? Are you sure about the source?
My page - Holidays
Wow! After all I got a webpage from where I
know how to really get valuable data concerning
my study and knowledge.
Here is my blog post - http://runningfortrevor.blogspot.com/2013/04/vacation.html
Hi, of course this paragraph is genuinely good and I have learned lot of things from it concerning blogging.
thanks.
Thank you, I've just been looking for information about this topic for a long time and yours is the greatest I have found out so far. However, what about the bottom line? Are you sure about the source?
Đăng nhận xét