(Dành cho người đọc chậm. Tiếp theo )
Thế là chú Thành nhờ người nhà mua cho cả đống sách về các loại tôn giáo khác nhau gửi vào nhà tù để đọc và chiêm nghiệm: đạo Phật, đạo Thiên Chúa, Lão Tử, Đạo Đức Kinh, đạo Hồi, đạo Dừa, đạo Mẫu…thôi thì đủ loại. 15 tháng trôi nhanh và nhờ gia đình chạy nên ông được tha. Tuy vậy hàng tuần vẫn phải lên Sở cảnh sát khai báo hết chuyện nọ tới chuyện kia, chẳng khác gì tội phạm, chú hiểu kiểu này ở đây mình không còn làm ăn được gì nữa rồi…
Chú tin vào số phận. Chú đã vào chùa ở mấy tháng cho thanh tịnh, thế mà cũng vẫn bị lôi về nhà để trình báo. Rồi có anh bạn tù có rất nhiều quan hệ bên Pháp quốc, mới gặp chú hỏi “mày có muốn qua bên đó không, đi với tao?”. Thì đi, vợ và 4 con thơ sẽ đi sau thôi! Đúng hẹn ngày giờ, chú ăn mặc đẹp như dự tiệc, tay xách cặp ung dung bước lên một con tàu của Pháp đang đứng ở bến Nhà Rồng, chiều hôm đó trên tàu có một buổi dạ tiệc. Ông bạn tù cùng bạn gái khoác tay nhau lên tàu. Sau buổi tiệc cả ba người được dẫn xuống hầm tàu để ẩn ở đó, rồi sáng mai tàu nhổ neo ra khơi…”Sóng dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương”. Ra đến hải phận quốc tế họ mới được chui lên, và chỉ phải trả tiền vé cùng “dịch vụ phí” mất 1500 USD, chú Thành sang tới Marseile. Cùng thuỷ thủ đoàn ra khỏi cảng thế là xong dịch vụ “đưa người”, ba người Việt hoà vào đám đông nước Pháp, nơi chú Thành đã từng tới trường từ bé…
Em chú, kiến trúc sư Bùi Kiến Quốc là người học một trường kiến trúc rất nổi tiếng ở Pháp, kém chú hơn chục tuổi là người đón anh tá túc. Rồi vợ con được tin chồng đã tới nơi, họ cũng “vượt biên” nhưng nhàn hạ hơn chú rất nhiều. Cũng bởi trong diện bị theo dõi, vợ chú và 4 con (2 trai 2 gái) đã đi qua Cao Miên từ An Giang, nhàn tản như đi du lịch, rồi từ đó mua vé máy bay bay qua Đức, ở đó có người đón đưa sang tận Paris. “Dịch vụ” cao cấp ấy cũng mất mấy căn nhà, nhưng xứng đáng thôi! Các con chú đi học đều rất giỏi, còn bà vợ không làm theo nghề học nữa, mà quyết định mở nhà hàng ẩm thực Việt tại Paris. “Asian Gourmet” ở quận 5 khá nổi tiếng, báo chí hay đề cập tới, trong đó có người khách ruột thường ăn cơm trưa không ngờ sau lại trở thành giáo chủ Khơmeni của đất nước Hồi giáo Iran. Nhà hàng này nằm đối diện một đền thờ Hồi giáo rất nổi tiếng nên cả thế giới Hồi giáo hay tụ tập tại đây. Còn chú và người em lo làm “bất động sản”…
Chú thấy quanh thủ đô không có nhiều cơ hội phát triển như miền nam nước Pháp, đất đai rộng rãi, thiên nhiên đẹp và còn chưa phát triển đủ. Lại cơ duyên đưa chú làm quen với một “ông trùm” bất động sản nay đã trắng tay, dự án bị ngân hàng tịch thu để gán nợ. Tìm hiểu về dự án cạnh bờ biển này, chú và người em thấy rất khả thi, tiếc rằng không còn kinh phí để làm, chủ dự án bó tay…Chú đàm phán với chủ dự án để cho mình tiếp tục triển khai, rồi tới nói chuyện với ngân hàng. Chú đàm phán: nếu để thế dự án chết, ngân hàng mất tiền, nhưng nếu làm tiếp bán được thì ngân hàng có cơ hội thu lại được vốn với lãi, cần phải làm tiếp hạ tầng và sửa đổi một chút…Ngân hàng thấy có lý, ký hợp đồng với chú, tức là chú không mua dự án đó, mà qua công chứng tất cả tiền ra tiền vào, tự ngân hàng trích ra tiền nào của mình, tiền nào trả cho bên chú. Có hợp đồng thế rồi, chú lại đi thuyết phục các nhà thầu, họ cũng bị “trói vốn”tại đấy, nếu cố làm tiếp thì chú sẽ bán được hàng (hơn trăm căn biệt thự đấy) rồi lại công chứng trả lại tiền cho họ, họ cũng quyết tâm làm theo cách đó! (Chú cười: nếu trẻ thì ở Việt Nam chú sẽ làm như vậy, để cứu Novaland chẳng hạn). Thế là cứ hết dự án này ngân hàng lại giới thiệu tiếp dự án khác…Cứ thứ sáu chú đi xe lửa về Paris, tối chủ nhật lại đi khỏi nhà bằng xe lửa xuống Toulon ở Pháp, rồi đi tới thành phố nhỏ ven biển, cũng may là Pháp có luật ai có 4 con thì giá xe lửa chỉ còn 10% nên thoải mái đi hạng nhất, ngủ một đêm là tới. Cuộc sống cứ thế êm trôi…”một mái nhà yêu rủ bóng xuống tâm hồn”! Không quên Mỹ, chú còn làm thêm giám sát khu vuẹc Chicago cho tập đoàn tài chính khổng lồ năm xưa, nay đã đổi tên là AIG.
Chú Thành có quan hệ tốt với đại diện sứ quán Việt Nam dân chủ cộng hoà (ông Võ Văn Sung, cùng đồng hương Quảng Nam), mặc dù ở nhà sau này bị quốc hữu hoá nhà máy pin, còn gia đình thì mất cả hãng dầu khuynh diệp do ông Tín lập ra cùng rất nhiều đất đai. Vẫn nghĩ thế này chả có bao giờ lại về quê hương, thì đầu năm 80 có người đại diện cho ông Phạm Hùng, khi đó mới Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng sang Pháp tìm gặp. Họ kể về tình hình cuộc sống ở nhà đầy rẫy khó khăn, sau chiến tranh biên giới và ở K thì càng lao đao về kinh tế. Chú hỏi “sao lại tìm tôi, tôi là tư bản gộc đấy?”. Người ta bảo tình hình nghiêm trọng lắm rồi, cần tham khảo ý kiến của chú. Chú nói, chỉ chấp nhận đối thoại nếu hai bên thực sự cởi mở, gọi sự vật theo đúng bản chất của nó. Nhất trí, chú mới bảo: “kinh tế quốc doanh của các vị không cho dân làm ăn, kể cả trồng rau, chăn gà, bắt cá,…không cho làm ra sản phẩm, trao đổi sản phẩm, ngăn sông cấm chợ, thì nghèo là chắc chắn rồi!”. Có cãi được không? Thôi anh xem từ cổ chí kim có đất nước nào mạnh mà dân lại nghèo không? Từ thời Hy lạp hay vua Hùng đến giờ, nếu không có thì đừng kêu gọi “vô sản” nữa! Họ vò đầu bứt tai, hiểu thì hiểu nhưng báo cáo thế thì khuyết điểm chết! Lại phải tìm giải pháp, thôi coi như đấy là ý kiến ông Thành, mà tốt nhất ông Thành viết ra một tờ A4, họ chỉ cần đem về trình cấp trên như thế là xong. Có 3 điểm: dân phải giàu, phải cho họ làm ra sản phẩm, phải cho họ trao đổi sản phẩm…
4 tháng sau họ quay lại, báo rằng lãnh đạo đã chấp nhận về nguyên tắc góp ý của chú, nhờ chú cùng lãnh đạo để từ các nguyên tắc này để làm ra chính sách cho phát triển kinh tế. Nói thì đơn giản thế thôi, chứ suốt mấy năm đầu 8X chú làm việc với “bên nhà”, từ lúc ông Phạm Hùng lên Chủ tịch HĐBT rồi từ trần, các vị khác lên thay công việc vẫn được tiến triển. Có công lớn của ông Kiệt, triển khai các nguyên tắc mới ở Sài Gòn khá thành công, nhờ đó 1983-1985 trong nam phát triển tốt, có cơ sở để thuyết phục các vị lãnh đạo khác. Bộ ba ông Hùng-ông Kiệt-ông Linh có tính cách Nam Bộ (dù ông Linh người bắc nhưng ở trong này lâu) mới có thể làm được! Nghị quyết đại hội VI là một kiệt tác về từ ngữ, tất nhiên là công sức của rất nhiều người:
“…là một cuộc cách mạng vĩ đại mà ổn định… Việt Nam là một nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, vì dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh…”. Từng chữ là một cải tiến mà rất nhiều vất vả mới đạt được! Có cơ sở để cải tạo nền kinh tế đang vận hành trái quy luật thị trường, từ trạng thái “tường cao hào sâu” ta chuyển dần sang “mở cửa” (nhưng quyết không “mở cổng”).
Nhưng Mỹ đang cấm vận, thì làm sao mà vượt qua được, mà bang giao? Chú đã nhận quốc tịch Mỹ, khi đó Việt Nam cực vất vả vì đâu còn viện trợ của Liên Xô và các nước XHCN nữa. Chú được mời về để giúp chính phủ thiết lập lại bang giao, chứ cấm vận rồi làm sao mà ai đi được, đi cũng đâu cho gặp được ai, mà cũng chú Thành về Việt Nam được chứ họ làm sao sang gặp chú?! Chú cũng lăn tăn, BĐS đang buôn bán tốt, vậy thì bỏ để về cũng uổng…Nhưng rồi 21/11/1991 chú có mặt ở Hà Nội, từ đó trở đi mọi chi phí đi lại ăn ở chú đều tự trả, đúng luật của Mỹ, không là lôi thôi to! “Cộng sản” cũng có tài tổ chức công việc lắm, một vị thứ trưởng Bộ Nội vụ được phân công làm việc với chú, và báo cáo trực tiếp lên Bộ Chính trị, đó là ông Lê Minh Hương, khi đó đang đeo quân hàm thiếu tướng. Chiến lược nào đây, để tiếp cận phía Mỹ mà không bị lép vế? Chú bảo với ông Hương: “các anh còn giam giữ 15 nghìn người của phía cộng hoà, là những người thân cận với Mỹ, đã 16 năm rồi, các anh có sợ họ không?”. Câu trả lời: “Sợ gì mà sợ!”. “Vậy các anh có sẵn sàng thả họ ra không, để tôi có cớ mà tiếp xúc với phía Mỹ?”. Ông Hương báo cáo lại BCT, sau 20 ngày câu trả lời là “Có!”. Tiếp tục: “Các anh thả tự do cho họ hoàn toàn, không giữ lại ai hay vẫn giam lỏng vậy?”. Lại 2 tuần sau câu trả lời: “Hoàn toàn!”.
Các bạn chú bên Mỹ mới phản hồi, rằng liệu thế có cho họ đi Mỹ được không? Chú lại qua ông Hương, câu trả lời là “Đồng ý”. Lại câu hỏi tiếp: “Thế họ đi thì gia đình được đi theo không, chứ họ nỡ nào đi một mình?”. “Cho đi theo!”. “Thế gia đình là chỉ có vợ con, hay là gia đình nội ngoại?”. Kết quả, ai trong gia đình lớn muốn đều có thể đi theo. Vì thế đó chính là sự mở đầu, quốc hội Mỹ ra nghị quyết, duyệt ngân sách và tài khoản HO đấy để trợ giúp cho số người này! Từ 1992 đến 1995 có 300 nghìn người Việt được đi theo diện này, mỗi người sang Mỹ được trợ cấp 500 USD/tháng…Đối thoại Việt Mỹ cứ thế được bắt đầu.
Phái bộ tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh (MIA) có văn phòng tại Hà Nội, cũng nhờ chú tác động, bởi họ biết trong Bảo tàng quân sự tại Việt Nam có lưu giữ thông tin về toạ độ 5000 lính Mỹ mất tích, mà không cách gì tiếp cận được – tay trưởng văn phòng người Mỹ, chức đại tá, nói tiếng Việt cực sõi. Chú Thành về nói lại với ông Hương, phía ta tuy chả tiếc gì, tin của Mỹ hoàn toàn đúng, nhưng tài liệu khu này đóng dấu “Tối mật”, không có nguyên nhân đặc biệt thì không thể giải mật được đâu. Về bàn lại với MIA, chú đề nghị với phía Việt Nam: “Phía Việt Nam nếu có viết lịch sử quân đội hào hùng của mình, thì phía Mỹ sẽ tài trợ thuê một nhà báo Mỹ sang, để giúp Việt Nam tìm hiểu, thu thập thông tin giúp!”. Việt Nam hiểu ý, đồng ý ngay, người Mỹ kia sang “vô tình” đi vào khu vực thông tin mật của Bảo tàng, dùng một máy scaner đặc biệt để chụp hàng nghìn tài liệu. Lần đó Tổng thống Bush đi công cán ở Honolulu, có trợ lý nhấc điện thoại gọi ngay cho tay trưởng phái bộ MIA, hỏi đi hỏi lại “Các anh đã lấy được hồ sơ đó chưa?”. Câu trả lời “Yes, Sir!” làm đầu dây bên kia cũng thở phào – chú được mời chứng kiến giây phút đó…Bắt đầu một số khoản cấm vận Việt Nam được Mỹ từ bỏ. Nó được in hết ra, rồi cất vào một thùng to tướng ở cơ quan MIA, nhưng mang về thế nào? Máy bay Mỹ thì đứng ở Nội Bài, từ đó ra sân bay cũng là sự phối hợp rất ăn ý của cả hai bên, ông được sự giúp đỡ của ông Lê Mai thứ trưởng ngoại giao, và một anh vụ trưởng vụ Bắc Mỹ là Nguyễn X.P. cùng đi với đại diện sứ quán Mỹ, mọi sự đều tốt đẹp.
Một lần ông Kiệt mời chú tới cơ quan, bảo: “Mỹ còn đang cấm vận, nhưng tôi muốn mời một tập đoàn nào thật lớn đầu tư vào ta, thì phải làm thế nào?”. Ý tưởng mà ông Kiệt truyền tải, là muốn Mỹ có tập đoàn nào “xịn” vào đầu tư cảng Đình Vũ ở Hải Phòng, đạt được một lúc mấy mục tiêu: để tỏ ra thân thiện với Mỹ và lôi kéo nhiều nước khác đầu tư vào ta, làm dịch vụ cho Trung Quốc vì Hải Phòng rất tiện cho hàng hoá Trung Quốc phía nam kéo ra biển sang đây, và cắm lá cờ Mỹ để Trung Quốc cũng phải dè chừng ta! Chú Thành nghĩ ngay đến AIG của mình, chủ tịch tập đoàn mẹ vào làm năm 1960, còn sau chú 1 năm. AIG cũng rất sẵn sàng, nhưng vướng cấm vận…”Không sao, ký hợp đồng với điều kiện khi nào Mỹ bỏ cấm vận thì thực hiện!”. Một đoàn của AIG bay từ Mỹ qua Thái Lan, về Hà Nội, từ đó trực thăng (thuê của quân đội) đưa xuống Hải Phòng, ăn trưa rồi làm việc với lãnh đạo thành phố, một MOU được ký! Chú Sáu mừng lắm, còn tin tức loan ra, rất nhiều doanh nghiệp Nhật hồ hởi lao vào ký với Hải Phòng, dần dần thành lập nên KCN Nomura.
Lại vụ khác, ông Kiệt mời chú Thành đến, lần này là “ca khó”. Một tập đoàn dầu khí Mỹ ký kết thăm dò khai thác với tập đoàn Trung Quốc, nhưng tại biển Đông, ngay đối diện Phú Khánh, mà ở chỗ ta coi là thềm lục địa của ta, làm sao? “Sao anh không cho hải quân oánh cho nó một trận?” – chú trêu vậy! Rồi chú bày cách: tập đoàn Mỹ thì không sợ trời sợ đất gì, chỉ có sợ phạm luật Mỹ thôi, mà đang cấm vận Việt Nam lại động đến lãnh thổ Việt Nam là phạm pháp! Nhưng ta phải có luận chứng rõ ràng, vì sao họ vi phạm cơ. Mà luật biển hồi đó của Việt Nam còn thô sơ, và viết không phải bằng ngôn ngữ của luật quốc tế, không dùng được để kiện nó đâu! Phải thuê công ty luật hàng đầu thế giới của Mỹ về luật biển, họ viết lại cho đúng kiểu, rồi họ sẽ doạ tập đoàn Mỹ kia được. Việt Nam đồng ý, nhưng công ty luật kia cũng thuộc diện cấm vận, thì mình trả tiền thế nào để thuê họ, ký với họ? “Thì họ phải đi chạy luôn cả cái đó cho họ nữa!”. Mà việc đó không cơ quan nào có thể đảm đương được, ngoài Tổng thống Mỹ. Chú Thành bay về Mỹ, liên hệ với công ty Luật kia, họ rất chuyên nghiệp và lobby giỏi thật, chưa đến 1 tuần mà Tổng thống Mỹ cho phép họ ký hợp đồng với phía Việt Nam, họ bắt đầu ký và thực hiện mất 2 năm mới xong hợp đồng, tháng 7/1995 mới kết thúc về Luật biển Việt Nam (sau khi bỏ cấm vận 2 tháng), nhưng công việc cực kỳ chuyên nghiệp và cặn kẽ. Kết quả sau đó là tập đoàn dầu khí Mỹ sợ sun vòi, thôi chả bắt tay với Trung Quốc trong vụ này nữa…
Vừa làm cho AIG vừa giúp cho cả 2 chính phủ, cứ thế chú Thành tiếp tục ở lại Việt Nam tham gia vào rất nhiều công việc, từ đó tới nay chú ở Hà Nội là chính, gần 30 năm, rồi vài năm sống ở Hội An (cùng với chú em Quốc về đó sống, ông Quốc là 1 trong 100 thành viên của Viện Hàn lâm khoa học Pháp) nhưng khí hậu không hợp, nay chú đang sống bình dị tại Sài Gòn, một căn chung cư chú thuê để ở (người Mỹ đâu có dễ mua nhà cửa gì!). Hình như bởi có sự chung tay của những trí thức trong và ngoài nước như chú Thành, mà kinh tế nước ta có chiều tăng trưởng đáng ghi nhận, “mái rạ nghìn năm hồng thay sắc ngói/những cuộc đời thường cũng có bóng hoa che…”. Chú tâm sự, rằng chỉ còn hai điều nguyện ước muốn góp sức làm cho được tại Việt Nam, cũng đều là những điều chú tâm đắc đã hàng chục năm trời…
(Còn nữa, nếu có 666 like ủng hộ, xin cám ơn!)
Ghi chú: người đánh máy hoàn toàn không có ý muốn thể hiện rằng việc “ông Diệm với Mỹ” hay việc “bỏ cấm vận” chỉ có công sức đóng góp của mỗi chuyên gia Bùi Kiến Thành. Hiển nhiên trong mọi thành công đều nhờ vào sự chỉ đạo sáng suốt…, các lãnh đạo anh minh…rồi biết bao người vỗ tay vào nữa! Đây chỉ là câu chuyện đời người, 95 năm có đủ hỉ nộ ái ố và duyên nghiệp.
Ảnh: chú Thành và đại tướng Võ Nguyên Giáp (St).
Nam Nguyen
Bonus: phỏng vấn với ông Bùi Kiến Thành (nguồn internet)
https://www.youtube.com/watch?v=4_FH4_95Aag
https://www.youtube.com/watch?v=JsWlrWIP5Rg
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét