Báo chí thế giới vẫn tràn ngập tin
tức về Trung Quốc. Không ưa Trung Quốc đến mấy cũng phải thừa nhận Bắc Kinh
đang tiến rất nhanh trên con đường cạnh tranh quyền lực với Mỹ. Các cảnh báo về
thủ đoạn và âm mưu Trung Quốc trên con đường ngoi lên vị trí cường quốc vẫn
không làm cho doanh nghiệp phương Tây ngưng hợp tác với Trung Quốc. Nhiều doanh
nghiệp Mỹ lẫn châu Âu phải nhượng bộ rất nhiều trước những yêu cầu và luật lệ
trói buộc khi làm ăn tại Trung Quốc.
Nhìn lại sự trỗi dậy Trung Quốc, có
thể rút ra vài điểm:
1/ Trung Quốc đang chi cực mạnh cho
các thương vụ đầu tư khắp thế giới, đặc biệt Mỹ và châu Âu. Theo hãng nghiên cứu
tài chính Rhodium Group, chỉ trong năm 2016, đầu tư trực tiếp nước ngoài của
Trung Quốc vào Mỹ là 45,6 tỷ USD (gấp ba so với năm 2015); và FDI của họ vào
châu Âu là 35,1 tỷ euro;
2/ Trung Quốc đang thiết kế nhiều
mô hình cùng lúc, từ “Một vành đai, Một con đường” đến Ngân hàng đầu tư hạ tầng
châu Á (AIIB), để từng bước tạo ra một trật tự thế giới mới mà họ là trung tâm;
3/ Trung Quốc xây dựng “nhuyễn lực”
(quyền lực mềm) bằng công cụ truyền thông rộng khắp thế giới và bằng các chương
trình “viện trợ” cho những quốc gia mà thời điểm hiện tại có thể phục vụ lợi
ích chính trị của họ (Campuchia chỉ là một ví dụ rất nhỏ). Họ cũng đầu tư mạnh
vào sản phẩm văn hóa, như điện ảnh, để xuất khẩu và truyền bá “tư tưởng Trung
Quốc” và “tinh thần nhân bản Trung Quốc”;
4/ Trung Quốc áp dụng chính sách
ngoại giao gây hấn và lấn chiếm biển Đông không chỉ để thỏa mãn và đạt được
tham vọng bành trướng muôn thuở mà còn để lấy lòng người dân trong nước như một
trong những phương thức trị an;
5/ Trung Quốc làm mạnh các chiến dịch
lobby ở các nước thông qua các tổ chức lobby chuyên nghiệp trong đó có Mỹ (đề
tài này xin được viết riêng thành một bài khác), để đánh bóng hình ảnh Trung Quốc
cũng như tìm được đúng cửa để gõ cho các dự án đầu tư vào quốc gia bản địa;
6/ Trung Quốc tổ chức một hệ thống
“dư luận viên cấp cao”, gồm nhiều giáo sư, học giả, nhà báo…, để giao chiến
trên mặt trận truyền thông (bằng tiếng Hoa lẫn tiếng Anh), thậm chí ngay trên
các chuyên san ngoại giao uy tín của Mỹ (như Foreign Policy) hoặc trên các tờ
báo chính trị khu vực quen thuộc như The Diplomat;
7/ Trung Quốc đầu tư mạnh vào kỹ
thuật quân sự và hiện đại hóa quân đội không chỉ cho tham vọng bá chủ tương lai
mà còn để hù dọa các nước khu vực thời điểm hiện tại;
8/ Trung Quốc đầu tư mạnh vào một số
kỹ thuật như công nghệ robot và các lĩnh vực liên quan trực tuyến chẳng hạn điện
toán đám mây, viễn thông và không gian, để tạo ra sức mạnh riêng (trong khi nhiều
lĩnh vực khác họ bỏ lỏng vì không đủ thực lực và nền tảng kiến thức lẫn kinh
nghiệm, chẳng hạn kỹ thuật y học);
9/ Trung Quốc áp dụng chính sách bảo
hộ mậu dịch để củng cố sức mạnh doanh nghiệp bản địa;
10/ Trung Quốc tiếp tục ủng hộ (ngầm)
chủ trương ăn cắp công nghệ-kỹ thuật thế giới để tiếp cận và sở hữu công nghệ
tiên tiến một cách nhanh nhất.
Có thể còn nhiều điểm chưa nêu hết
nhưng nhìn chung vẫn phải thừa nhận “mô hình” mà Trung Quốc đang theo đuổi đã
giúp họ trở nên mạnh và mạnh hơn rất nhiều lần so với chính họ cách đây chỉ một
thập niên. Trung Quốc đang chứng minh, ít nhất với người dân họ, rằng mô hình
chính trị và phát triển kinh tế của họ, là thành công. Tuy nhiên, sẽ còn rất
lâu Trung Quốc mới có thể bắt kịp các nước tiến bộ, về an sinh xã hội, tự do
báo chí, giáo dục, lẫn môi trường. Không có mô hình phát triển nào là toàn bích
tuyệt đối và mô hình Trung Quốc càng rất bất toàn. Trung Quốc đã phải trả giá rất
đắt cho sự chọn lựa giới hạn bắt buộc trong các mục tiêu phát triển của họ.
Có thể liệt kê một danh sách dài về
mặt trái phát triển Trung Quốc: môi trường tan nát, giáo dục nhếch nhác, dịch vụ
công tồi tệ, tham nhũng tràn lan, đạo đức xuống cấp, và cả chính trị phe nhóm.
Sau nhiều năm “bùng nổ phát triển”, thành phố Bắc Kinh từng có lúc như phải
“đóng cửa” trước tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng; người Trung Quốc phải sống
trong sự khủng hoảng an toàn thực phẩm; giới có tiền phải đưa con đi tỵ nạn
giáo dục; công nhân bị đối xử như tầng lớp thấp nhất xã hội; đất nước vẫn như một
nhà tù khổng lồ đối với những người hoạt động lên tiếng đòi hỏi một xã hội liêm
chính và một nền chính trị cởi mở…
Thật trớ trêu là tất cả mặt xấu của
tấm huy chương phát triển Trung Quốc đều có một bản sao gần như không sai chệch
một ly ở một phiên bản nhỏ hơn: Việt Nam - dù sự phát triển Việt Nam còn lâu mới
có thể so với Trung Quốc; bất chấp rằng mô hình chính trị Việt Nam là một phiên
bản sao y của Trung Quốc. Có những câu chuyện xảy ra ở hai nước giống nhau đến
mức chỉ khác biệt ở tên người và địa danh, từ chuyện đầu độc thực phẩm; xếp
hàng tranh chỗ vào lớp một; thi cử rối ren; bệnh nhân đánh bác sĩ; sự lộng hành
của nhân viên trật tự đô thị (Trung Quốc gọi là “thành quản”); mua bằng bán cấp;
mua quan bán tước; con ông cháu cha; hối lộ quan chức; công an đánh chết dân;
hình thức chủ nghĩa; trưởng giả làm sang; đến cả các phương pháp theo dõi, bắt
bớ và “xét xử” những bản án dành cho giới hoạt động xã hội. Điều gì khiến Trung
Quốc và Việt Nam trở thành một ngoại lệ hiếm hoi trong lịch sử thế giới trong
đó hai quốc gia giống gần như hệt nhau, trừ ngôn ngữ?
Yếu tố địa lý có thể là nguyên
nhân. Địa lý là một trong những lý do gần như luôn được nêu lên đầu tiên trong
các bài viết phân tích và lý giải về sự khó khăn trong việc “thoát Trung”. Cùng
với địa lý là văn hóa, với những tương đồng trong văn hóa hai nước. Tuy nhiên,
cả địa lý lẫn văn hóa, dù mang lại ít nhiều ảnh hưởng, vẫn không phải là thủ phạm.
Nhật Bản vẫn là Nhật Bản dù văn hóa Nhật có nguồn gốc ít nhiều từ Trung Quốc;
và Kanji là một trong những chữ viết có nguồn gốc Hán tự nhiều nhất thế giới –
nói về văn hóa và ảnh hưởng văn hóa. Singapore vẫn là Singapore dù 74,3% dân số
nước này là người gốc Hoa. Nói về địa lý, đã có một Do Thái biết cách tạo ra được
một “căn cước dân tộc” đủ mạnh để không bị đồng hóa và chịu ảnh hưởng văn hóa của
khối Arab vây kín gần như bít bùng. Địa lý và văn hóa không là thủ phạm. Chính
trị và mô hình chính trị tương đồng mới là yếu tố chính, trong trường hợp Trung
Quốc và Việt Nam.
Nếu Việt Nam được lãnh đạo bởi một
mô hình chính trị và được điều hành bởi một mô hình kinh tế như Singapore hay
Hàn Quốc thì liệu Việt Nam có còn giống Trung Quốc nữa không? Câu hỏi này xin
nêu ra như một gợi mở chứ không phải kết luận. Dù vậy, như được thuật trong
“Why Nations Fail: The Origins of Power, Prosperity, and Poverty” (tác giả
Daron Acemoglu), vai trò điều hành và cách thức điều hành mới là yếu tố quyết định
cho phát triển, bất chấp địa lý lẫn văn hóa. Ví dụ được nêu trong “Why Nations
Fail” là thành phố Nogales được ngăn chỉ bởi một cái hàng rào – một bên thuộc
Santa Cruz, bang Arizona, Mỹ; bên kia thuộc bang Sonora, Mexico. Nogales-Mỹ có
thu nhập hộ dân trung bình khoảng 30.000 USD/năm; đa số người trưởng thành tốt
nghiệp trung học, người dân được hưởng nhiều dịch vụ phúc lợi, đời sống an
toàn, xã hội không trộm cắp, tham nhũng, và họ được bầu thị trưởng, nghị sĩ địa
phương…
Trong khi đó, hầu hết người trưởng
thành tại Nogales-Mexico không có bằng trung học, nhiều thiếu niên bỏ trường,
các bà mẹ lo lắng tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh, cướp bóc giật dọc nhan nhản… Giữa
cái hàng rào, không có khác biệt gì về địa lý, văn hóa, khí hậu hoặc thậm chí
các loại dịch bệnh vì vi trùng chẳng phải đối mặt với rào cản hay biên giới nào
để gây bệnh. Sự "thiếu may mắn” của người Nogales-Mexico là họ không được
sống trong một thể chế chính trị ổn định và quốc gia không được điều hành bằng
một nền chính trị minh bạch (Mexico là một trong những nước có tình trạng tham
nhũng tồi tệ nhất thế giới). Rõ ràng yếu tố địa lý lẫn ảnh hưởng văn hóa không
hẳn là nguyên nhân của vấn đề, khi nói đến Trung Quốc và Việt Nam. Hãy thử nhìn
sự khác biệt trong văn hóa sống của người Hong Kong với người Hoa lục sẽ có thể
thấy thêm không ít điều.
Trả lời phỏng vấn Đài tiếng nói Việt
Nam (VOV) trong chuyến đi Quảng Tây giữa tháng 9-2017, Trương Hòa Bình (phó thủ
tướng) nói: “Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng gần gũi…, mối tình hữu
nghị truyền thống “vừa là đồng chí, vừa là anh em” được Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng các thế hệ tiền bối dày công gây dựng…, đã trở
thành tài sản chung quý báu của hai đất nước, hai dân tộc…”.
Những phát biểu tương tự lặp đi lặp
lại, năm này qua năm kia, như được rã ra từ một cuộn băng ghi âm sẵn, đã gần
như xác quyết mối quan hệ bất di dịch giữa hai nước. Tuy nhiên, khi Hà Nội
“kiên định” với con đường và lựa chọn của họ, có bao giờ họ tự hỏi tại sao họ
“chọn đúng” nhưng đất nước vẫn “đi sai” và không thể phát triển theo cách tương
tự Trung Quốc; rằng trong khi mô hình Trung Quốc đang lớn dần nhưng phiên bản
nhỏ hơn của nó lại ngày càng èo uột, và tệ hơn, ngày càng bị hút mạnh vào sự lệ
thuộc kinh tế Trung Quốc? Lý do là gì? Phiên bản nhỏ hơn bị lỗi nhiều hơn, kém
chất lượng hơn, hay bị cố tình làm cho hỏng nhiều hơn? Và ai là thủ phạm?
Không người dân nào có thể biết
chính xác đằng sau quan hệ Việt-Trung hiện tại là gì, nhưng gần như ai cũng thấy
rằng sự chọn lựa của Hà Nội đang mang lại cái giá quá đắt cho đất nước và cho
nhiều thế hệ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét