( Bài hay, dài, xin quí vị đọc hết bài này)
Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát ( Thích Trí Siêu ) hai thiên tài hiếm quý của Phật giáo và Dân tộc, một là thiên tài tư tưởng và một là thiên tài sử học.
Tại sao gọi Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ là “hai vị Thiền sư lỗi lạc nhất, thông minh nhất, uyên bác nhất, trong sạch nhất của Việt nam hiện nay”? “Thiền sư” à? Chỉ nội cái danh hiệu “thiền sư” đã là mệt rồi, lại còn thêm mấy chữ mơ hồ như “lỗi lạc nhất, thông minh nhất..”? Tôi muốn nói về Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát với tất cả thận trọng và suy nghĩ chín chắn cặn kẽ, và tôi xin chịu mọi trách nhiệm về cái nhìn khác thường của tôi đối với nhị vị.
Tại sao là “thiền sư”? Và “thiền sư”: Là thế nào? Không cần trả lời trực tiếp về những câu hỏi bất thường này. Nơi đây, tôi chỉ xin nhấn mạnh đôi điều gián tiếp và ai muốn hiểu gì thì cứ hiểu. Không ai có thể tự nhận đủ thẩm quyền tôn giáo và tâm linh để trả lời dứt khoát những câu hỏi bất thường trên. Chỉ có những kẻ bỏ cả trọn đời mình lặng lẽ sống chết với cái gọi là “Bồ Ðề tâm” hay “Phát Bồ Ðề Tâm” thì may ra mới trực nhận đâu đó khí phách và thần dụng bảng lảng của “nghịch hành thiền”.
Mấy chữ “thiền sư” đã bị người ta lạm dụng để tự truy tặng một cách lố bịch hay truy tặng kẻ khác với nông nổi dễ dãi tự mãn phè phỡn nông cạn, nhất là từ lúc Thiền hay Zen trở thành cái mốt trí thức đốn mạt. Bất cứ người nào tỏ vẻ “kiêu ngạo khác thường” một chút là có những hành động cử chỉ “ngược đời trái đạo” một chút thì tự gán hay bị gán là “thiền sư’.
Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ không bao giờ tự nhận lời “thiền sư” và cũng không bao giờ nghĩ mình là cái gì cả trên mặt đất này. Hai người này chỉ là những kẻ lễ độ khiêm tốn một cách tự nhiên và không bao giờ biết giả vờ “hạ mình” với ý đồ kín đáo chà đạp lên trên kẻ khác.
Có sống bên cạnh Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát từ ngày này qua ngày khác, trong những hoàn cảnh khác nhau, thì mới may ra cảm nhận đôi chút tác phong thiền sư kín đáo toát ra một cách tự nhiên và một cách “vô công dụng hạnh” từ đời sống thường nhật và tinh thần “diệu nhập” của hai vị. Tôi xin gọi hai vị này là “thiền sư” với tất cả đắn đo thận trọng và với tất cả ý nghĩa cao đẹp và “như thực” của một danh xưng “xung thiên chí”…
Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát đều sinh năm 1943 (Thát sinh quán tại Quảng Trị và Tuệ Sỹ thì nguyên quán tại Quảng Bình và ra đời ở Paksé tại Lào). Tên thực của Tuệ Sỹ là Phạm Văn Thương và pháp hiệu Tuệ Sỹ do chính mình tự đặt ra, có lẽ vì muốn theo gương của vị Ðại Thiền sư đời Trần Tuệ Trung Thượng Sỹ? Cũng như Lê Mạnh Thát đã tự đặt pháp hiệu là Trí Siêu để gợi lại tên tuổi của hai vị Trưởng lão Thiền sư có tài và có đức nhất thời hiện đại?
Tuệ Sỹ và Trí Siêu đều tu ở chùa từ lúc rất bé nhỏ; cả hai đều rất giỏi chữ Hán, và rành chữ Pháp, chữ Anh, đọc hiểu chữ Ðức, đọc được chữ Pali và chữ Phạn (Lê Mạnh Thát cũng biết đôi chút chữ Tây Tạng); cả hai đều có kiến thức uyên bác về những kinh luận chính yếu của Phật giáo Nguyên Thủy và Ðại Thừa.
Ít có nhà Phật học nào ở Việt nam có thể am hiểu tường tận về tư tưởng Vasubandhu và cả tư tưởng Asanga cho bằng Lê Mạnh Thát; cũng như có ít người hiểu được tư tưởng Abhidharma (hệ thống phức tạp nhất của Phật giáo Nguyên Thủy) và tư tưởng Nagarjuna một cách sâu sắc cho bằng Tuệ Sỹ.
Chẳng những thế, Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ đều có kiến thức sâu rộng về Triết học Tây Phương (Tuệ Sỹ đọc rất kỹ Heidegger và Michel Foucault; bài diễn thuyết đầu tiên về Michel Foucault tại Việt Nam dạo đó là do Tuệ Sỹ thuyết trình tại giảng đường Ðại Học Vạn Hạnh; còn Lê Mạnh Thát rất thông thạo về Marxism, đọc cặn kẽ bộ Recherches logiques của Husserl, hiểu biết rành rọt Wittgenstein và Bertrand Russell và Merleau-Ponty.
Tuệ Sỹ thì có tâm hồn thi sĩ chơi vơi, sống trọn vẹn trong thế giới nghệ thuật và thi ca, thổi sáo, chơi dương cầm, làm thơ, say mê thi sĩ Ðức Hoelderlin, đọc hết toàn tập đường thi ngay nguyên tác, viết một tác phẩm sâu sắc thơ mộng nhan đề “Tô Ðông Pha, Những Phương Trời Viễn Mộng”; còn Lê Mạnh Thát thì không biết làm thơ và chẳng hề để ý đến nghiên cứu văn chương nghệ thuật, mà chỉ say mê luận lý học, khoa học và toán học, nghiên cứu sâu rộng về kinh tế, chính trị, và quân sự nhất là lịch sử thế giới, đặc biệt nhất là lịch sử những cuộc cách mạng ở thế giới (trong thư viện của tôi ngày xưa tặng cho Phật Học Viện Nha Trang có bộ sách Révolution Russe của Trotski).
Từ lúc hãy còn rất nhỏ cho tới lớn khôn trưởng thành, Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát đều sống một đời tu hành khắc khổ và trong sạch hoàn toàn, không bao giờ ham mê danh vọng thế tục, không bao giờ để ý đến địa vị xã hội và chẳng bao giờ biết đến tiền bạc lợi lộc cho chính bản thân.
Trong lòng nhị vị vẫn thường trực hừng hực thệ nguyện vô biên đến Giác ngộ vì lợi cho tất cả và giải thoát cho tất cả.
Chúng ta chỉ đủ sức nhìn thấy được những Thiền sư đúng nghĩa mỗi khi nào chúng ta có đủ sức mạnh tâm linh để tự quên mình, cũng như Ðại sư Ðạo Cao đã dạy thống thiết trong sách “Sáu Bức Thư ở thế kỷ thứ V” mà Lê Mạnh Thát đã phát hiện cho toàn dân tộc:
“Nếu quên mình mà hết lòng thành thì tất có cảm và có cảm thì tất có thấy: không cảm thì không thấy. Thánh nhân đâu phải không thường ở với quần sinh, đâu phải là ta không thường thấy”.
Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ đã quên mình mà hết lòng thành thì tất nhiên nhị vị cảm được tất cả những đổ vỡ bi đát của quê hương và kiếp người: Hai người đã được hết tất cả tính mệnh của Việt Nam thì tất nhiên nhìn thấy được những gì vẫn giữ lại Việt tính, và họ đã lên đường trở thành những Ðạo sư dẫn đường cho cả dân tộc.
_Triết Gia Phạm Công Thiện California ngày 18.10.1988_
Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát bị kết án tử hình!
Chỉ mấy chữ ngắn ngủi đó cũng đủ sức chấn động xô đẩy tôi đối mặt với cái gì bi tráng một cách kỳ dị của một cái gì đang còn sống một cách uy linh trên mảnh đất như chết của quê hương ngày nay.
Trước hết, đó là bởi cái đối nghịch khác thường của hình ảnh: Một Tuệ Sỹ gầy còm chỉ cân nặng 39 kí lô trước 1975. Một Lê Mạnh Thát hom hem, không từng vượt quá 45 kí ngay cả khi ở Mỹ mới về. Và sau 1975, sức nặng của hai tấm thân ấy còn bị co rút lại hơn nữa.
Có gì đáng nói chăng ở hai tấm thân ấy là đôi mắt sâu hoắm của Tuệ Sỹ và vầng trán rộng mênh mông của Lê Mạnh Thát. Giữa cuộc sống tang thương mọi bề ở Việt Nam ngày nay, hình bóng nhỏ bé của hai con người đó như chìm ẩn vào trong tất cả và như cưu mang cùng tất cả nỗi khổ hạnh hữu hình có tính cách truyền thống của lịch sử Việt.
Cái sức nặng vật chất của hai hình bóng đó rõ thật là vô nghĩa. Nhưng khi cái sức mạnh vô nghĩa đó đặt đối diện với một cái được xem như kinh khủng nhất của một đời người, cái án tử hình, và với tất cả những gì xung quanh và ở đằng sau án tử hình đó, súng đạn, nhà tù, công an, thẩm vấn, tra khảo, bóng tối, đêm và những tiếng động rùng rợn, ngày và bốn bức tường sắt kín bưng, phiên tòa với cả một hệ thống người lạnh lùng, sắt máu và với hai tiếng tử hình đã có sẵn trước khi bắt đầu thì tất cả sự vô nghĩa của hai tấm thân gầy yếu ấy tự khắc trở thành ý nghĩa với tất cả những gì được gọi là khẩn thiết nhất, trầm trọng nhất của con người trước lịch sử của nó.
Cái đối nghịch khác thường của hình ảnh ở đây, kỳ cùng là sự đối diện lẫm liệt của con người với hư vô của lịch sử chứ không chi khác.
Nhưng chính ở sự đối diện ấy, con người không nói cái gì khác hơn là khát vọng thống thiết của chính mình trong thi thiết với khát vọng của tất cả những ai đang bị nghiền nát dưới bánh xe của lịch sử. Và nói là nói với tất cả sức lực bình sinh.
Sau nữa, đó là bởi cái cốt cách trí thức và tài hoa của Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát, cả hai đều sống một cách cực kỳ giản dị và tự nhiên đến gần như cẩu thả, không bao giờ màng đến chuyện tiền bạc, ăn mặc, đến dư luận thị phi, nguyên tắc… để làm ra cái vẻ trang trọng, nghiêm nghị khác người, để “tổ chức đời sống” của mình một cách hợp lý theo bất cứ nghĩa nào.
Những Đức lý, Lương tâm, Nguyên tắc của cái tự nhiên như một thứ trật tự của mâu thuẫn, hỗn độn trong thực tại tục đế sai biệt này. Cả hai đều là những kẻ mê sách vở, chữ nghĩa. Thế giới của danh ngôn, chứa đựng những tư tưởng, ý tưởng, ý niệm rất nhiều khi làm cho cả hai đắm mình vào để bất chợt, một tiếng động nhỏ nào đó vang lên là như cả cái thế giới đầy những tư tưởng, ý tưởng, ý niệm kia bị vỡ toang.
Tuệ Sỹ là một khuôn mặt trí thức khác thường. Ông không có một văn bằng chính thức nào, không tốt nghiệp từ một trường học nào hết, dù ông có theo học vài chứng chỉ về Phật học ở Viện Cao Đẳng Phật Học Sài Gòn khi Viện này mới được thành lập vào năm 1964. Tuy nhiên, ngay cả cái tuổi chưa đầy 20, trí óc ông đã thông tuệ khác người. Bắt đầu với những suy nghiệm và kinh nghiệm về nỗi thống khổ của hiện sinh, ông bước vào thế giới của Phật học và triết học.
Từ đó mà trí tuệ của ông nảy nở, không phải như một thứ hư tưởng, nặng mùi thuyết lý dù ông là kẻ mê sách vở, chữ nghĩa mà như những kinh nghiệm sống động trực tiếp của kẻ luôn nhìn thẳng vào những điêu linh của thời đại và những thống khổ vô vàn của hiện sinh trong khi đối diện với những vấn đề đặt ra trong Phật học và triết học.
Phật học, ông mang lòng tha thiết đi vào là lẽ dĩ nhiên, không chỉ vì ông là một Tăng sĩ mà có lẽ, còn vì Phật học là tư tưởng được xác định lập trên nền tảng đau khổ và hư vô của đời sống; và do thế, nó thiết cận với tâm hồn của ông hơn bất cứ nguồn triết lý nào khác.
Cũng thế, với các tư trào triết học đương thời chi phối tâm hồn của tuổi trẻ Việt Nam, ông như bắt gặp mối đồng điệu với triết học hiện sinh. Nhưng trong khi triết học hiện sinh ở thời tuổi trẻ của ông đang vùng vẫy với tên tuổi của những Jean Paul Sartre, Karl Jaspers hay Gabriel Marcel… thì ông đi thẳng tới Kierkegaard và xa hơn, tới Nietzsch và Heidegger từ cái tuổi hãy còn rất sớm.
Sẵn căn bản hết sức vững chãi khó có ai hơn về chữ Hán, ông càng ngày càng đi xa hơn vào Phật học qua các văn bản Trung Hoa, và không lâu sau đó, qua các nghiên cứu, dịch bản của các tác giả Nhật Bản và Tây phương, ông sớm có được sự hiểu biết cực kỳ uyên bác về các hệ thống tư tưởng phức tạp và mênh mông của Phật giáo, Tiểu thừa cũng như Đại thừa.
“Vấn đề Tâm thể trong Tâm lý học Phật giáo” là bài diễn thuyết đầu tiên của ông ở Đại Học Vạn Hạnh đề cập đến một trong những vấn đề gai góc và trung tâm nhất của Phật học cho thấy sự hiểu biết vô cùng sâu sắc của ông về triết học của các hệ phái Phật giáo.
Nhưng ở sở trường của ông là luận lý. Có lẽ Theodore Stcherbatsky, tác giả của Buddhist Logic và T.R.V. Murti, tác giả The Central Philosophy of Buddhism là hai trong những khuôn mặt của giới Phật học Tây phương được ông nể vì.
Nhưng trên hết, Nagarjuna, triết gia vĩ đại đầu tiên và là bậc long tượng của Phật giáo Đại thừa, người đã xác lập nền biện chứng phủ định triệt để, vị Luận sư tác giả của Trung Quán Luận, Đại Trí độ Luận… mới là người ông ngưỡng vọng sâu xa đến nỗi, tự nhận mình như một đồ đệ trung thành, có khi như một hậu thân ngày nay của Nagarjuna hai ngàn năm trước.
Tác phẩm đầu tiên của ông trình bày những kiến giải về Triết học Tánh không của Nagarjuna cho thấy tấm lòng hoài vọng thiết tha đến thế nào của ông đối với hình bóng vĩ đại của Nagarjuna. Tác phẩm quan trọng nhất của ông có lẽ là Duyên Khởi Luận chính là nền tảng uyên nguyên của Tánh Không Luận.
Sở trường là đó nhưng trí tuệ và ngòi bút của ông cũng đi vào hầu hết mọi thể tài khác của Phật học và đôi khi bước sang cả triết học Tây phương: viết khảo luận về Mật tông, soạn sách Đại cương về Thiền Quán, dịch “các Tông phái của đạo Phật (The Essentials of Buddhist Philosophy) của Takakusu, dịch Thiền Luận quyển Trung và Hạ (Le Bouddhisme en Annam des Origines au XIIIè Siècle) của Trần Văn Giáp, viết về Merleau Ponty, diễn thuyết về Michel Foucault…
Tuệ Sỹ lại còn ẩn mật cái cốt cách tài hoa của một nghệ sĩ, sẵn sàng đam mê vào chốn đoạn trường khổ lụy để cho tiếng thơ mở ra một trời một cao sang, sẵn sàng “xô dạt bóng thiên thần” để làm kẻ “rong chơi từ hỗn độn”. Tài thơ của ông có mang cái khí vị thanh cao của kẻ u uẩn mênh mang của cõi lòng ông trong cuộc nhân sinh vẫn như luôn muốn tìm nẻo giao tình với tấm lòng của đất trời đâu đó, ngay cả khi ông nhẹ nhàng vạch một đường thơ mà chơi làm như kẻ dửng dưng với mọi sự, “không phiền trược cầu mong chi giải thoát, cứ thong dong như nước chảy qua cầu.”
Thơ ông đã đăng, không nhiều, như chỉ sáu bảy bài. Nhưng thơ ông đã làm, rất nhiều – nhất là sau này – đến cả hai tập mang tên Ngục Trung Mỹ Ngữ. Với khổ lụy của hình hài, trước gian nan của nẻo bước, lời thơ của ông ở đây như giọt nắng vàng trên sa mạc, phản chiếu khuôn mặt tài hoa của ông giữa đêm đen của sử mệnh Việt Nam hôm nay. Nhưng trong tất cả và trong chốn cùng của ngôn ngữ thơ ông, tôi đều thấy như có mãi cái giọng tình u uẩn khơi vơi.
Cũng cái giọng tình u uẩn khơi vơi đó, ông viết về thơ Tô Đông Pha. Đó là một tác phẩm kỳ tuyệt của một tài hoa nước Việt viết trong niềm giao cảm với và về một tài hoa Trung Hoa mà chỗ “đọa đày” hay “viễn mộng”, chỗ sở học hay sở ngộ như có điều đồng thanh khí – nhất là trước cái mà họ Tô và cả ông đều như muốn cùng rung đùi mà lên giọng lửng lơ, Lô Sơn chân diện mục!
Ngoài Tô Đông Pha, có lẽ Lý Hạ là tài thơ Trung Hoa thứ hai ông thích và thích có lẽ ở chỗ quỉ kinh kỳ khốc. Ông từng có lần bảo rằng ông tính viết về thơ Lý Hạ như đã viết về thơ Tô Đông Pha. Tiếc thay, tôi chưa thấy nó ra đời. ông cũng làm thơ chữ Hán. Thơ chữ Hán của ông, ông không được đọc. Chỉ biết rằng, Bùi Giáng đã hết lời thán phục.
Cốt cách tài hoa của ông còn đẩy ôn đi vào thế giới của âm thanh. Mê nhạc cổ điển Tây phương, sẵn sàng dâng cả con người với trọn vẹn trái tim cho phím dương cầm; và ở những khi đó, ông như chẳng còn biết gì đến thế sự đảo điên, bất chấp mọi đọa đày của thể xác. Đã có lần, ông và Lê Mạnh Thát bị công an Cộng Sản bắt và bị tạm giữ trong một ngôi nhà ở Nha Trang, thấy chiếc dương cầm, ông thản nhiên ngồi dạo một khúc chơi, chẳng màng đến công an, đến cảnh tù tội trước mắt.
Lê Mạnh Thát lại là một con người khác. Từ thuở còn ngồi ghế Trung học, ông đã nổi tiếng thông minh, kiến thức bác lãm, nhất là về tư tưởng triết học và về các lý thuyết chính trị, cách mạng, đến nỗi các thầy, cô dạy ông phải nể sợ, nể sợ nhất là ở cái tính ngay thẳng, chỉ biết tôn trọng duy nhất một điều là “chân lý khoa học khách quan”, sẵn sàng “đốp chát”, “sửa sai” thầy cô bất cứ lúc nào trên căn bản kiến thức vững vàng và bác lãm mà ông có được qua số lượng các sách Anh, Pháp, Hán dồi dào ông đọc.
Thuở đó, tôi thấy ông như con người chỉ có óc mà không tim, chẳng bao giờ thấy ông rung động hay vướng lấy một chút sầu muộn nào. Sớm có ý thức về lịch sử và tới một thiên tư khác thường khoa học, luận lý, về sinh ngữ, cổ ngữ, ông đọc khắp tất cả các sách triết học, nhất là loại triết học hành động Marxism, nghiên cứu rất nhiều lãnh vực, từ các lý thuyết chính trị đến các phong trào cách mạng trên thế giới. Hẳn nhiên, Phật học là lãnh vực ông học hỏi và nghiên cứu trước hết. Hiểu biết của ông về Phật học hết sức vững vàng và sâu rộng, nhất là về lịch sử phát triển tư tưởng của nó.
Có điều, tất cả nền Phật học đó, trước mắt ông đều phải được đặt trên nền tảng nghiên cứu của Khoa học lịch sử khách quan; ở đó chỉ những gì xác thực với ông mới có giá trị, còn những gì gọi là huyền thoại, không chứng minh được mà chỉ kêu gọi sự khả tín, ông đều gạt bỏ không đắn đo. Ở ông, cái gọi là niềm tin tôn giáo không có ý nghĩa gì nếu nó không được trang bị bằng những dữ kiện khách quan, những yếu tố xác thực.
Quan điểm đó thúc đẩy ông đi xa trên con đường nghiên cứu, phát hiện và chứng minh được nhiều sai lầm, bổ chính được nhiều điểm thiếu sót trong các sách sử Phật giáo xưa nay. Nó cũng đẩy ông tới khuynh hướng phân tích hệ thống hóa tư tưởng Phật giáo, dùng những công thức, ký hiệu của luận lý toán học để minh chứng cho những diễn dịch của tư tưởng.
Bài nghiên cứu đầu tiên của ông tôi đọc, Đưa Vào Luận Lý Học Trung Quán, đăng trên tạp chí Tư Tưởng bộ cũ của Vạn Hạnh là một nỗ lực mới mẻ nhằm giới thiệu đường hướng nghiên cứu này và gần như hoàn toàn xa lạ với các nhà Phật học ở Việt Nam bấy giờ. Luận án tiến sĩ của ông, The Philosophy of Vasubandhu (The University of Wisconsin 1974) là một nỗ lực công phu khác, sử dụng phương pháp luận lý mới này để nhằm xác định được rằng, đối tượng của ý thức – như là vấn đề trung tâm của triết học Vasubandhu – là danh ngôn (names) chứ không là gì khác.
Cống hiến lớn nhất và quí nhất của ông vẫn là ở phương diện lịch sử.
Quan điểm nghiên cứu của ông ở phương diện này có khuynh hướng xã hội, cắt nghĩa những biến chuyển của ý thức và tâm tình con người trên căn bản của những tương quan tác động của xã hội, dù ông không hẳn thoát ly với lập trường Duyên Sinh cố hữu của Phật giáo. Dù sao, sử học luôn yêu cầu những sự thực khách quan. Đáp án cho một vấn đề của lịch sử luôn luôn là trong liên hệ tại ở chỗ đó.
Ông lại là người mang “tính khoa học” rất cao, khinh miệt mọi thứ trí thức nửa vời, gian dối, rất ghét những phán đoán mơ hồ, bất xác, vô bằng. Ngôn ngữ của ông lại rất thẳng, rất không có chút tình cảm, tế nhị nào hết.
Nghiên cứu về tình trạng Phật giáo Việt Nam thời Hậu Trần, dù là tu sĩ, ông vẫn trình bày không chút e dè, phê phán không chút “nương tay” tất cả những sa đọa, tồi tệ của Phật giáo thời đó. Cũng thế, lần đầu đọc bộ sách về Văn học Việt Nam của Thanh Lãng, phát hiện ra nhiều điểm sai, ông viết ngay một bài “Ba cái ngu của Thanh Lãng”
(bài này không phổ biến vì thấy phê bình quá nặng tay nên có người can thiệp)
Thế đó, với ông, tất cả là cho chân lý khoa học. Sử học là như thế. Con người ông là như thế. Con người đó quả thật thích hợp cho sử học. Nó thiết thân với giấc mộng từ thời còn trẻ mà ông đem hết tài hoa và thông minh của mình để thực hiện sau này.
Giấc một đó, nói theo ngôn ngữ của ông, là đập vỡ hết mọi “lối ăn nói ngang ngược, tầm phào bá láp” của những tay viết sử Việt xưa nay, hoặc trên quan điểm của “bọn phong kiến, thực dân xâm lược” hoặc trên sự bằng lòng dễ dãi, “ngu xuẩn” đến như tôn sùng những luận chứng bất xác từ trong những sách Tàu, sách Tây để mong tái tạo lại chân lý của sử Việt đã bị chôn vùi bởi thời gian và thiên kiến.
Chính giấc mộng đó đã thúc đẩy ông, ngay từ khi đang học về Y khoa và Triết học Ấn Độ ở Mỹ, ra công sao chụp tất cả những tài liệu về sử Việt ở xứ người; để đến 1974, sau khi tốt nghiệp trở về nước, ông chẳng hề đếm xỉa gì đến mấy mảnh bằng có được mà lao đầu vào ngay việc thực hiện giấc mộng của mình.
Ông đã lặn lội đi khắp nơi ở miền Nam và Trung, đến tận những vùng xa xôi hẻo lánh, bất chấp mọi tình trạng an ninh bất ổn để làm những nghiên cứu tại chỗ hoặc để thu thập các tài liệu Hán Nôm có được, từ một tờ giấy bồi rời đến những tập sách đóng kín trong các rương, hòm hay trên các bệ thờ dễ chừng cả trăm năm không ai đụng tới.
Bằng mọi cách xin, sao, chụp, mượn… ông thu thập tất cả và chở về Sài Gòn, chất đầy một căn phòng lớn tại Đại Học Vạn Hạnh. Chính từ kho tài liệu đó, ông miệt mài ngày đêm làm việc. Chỉ trong mấy năm, sự miệt mài của ông đã mang lại những cống hiến vô cùng lớn lao cho Phật giáo và dân tộc về lịch sử và văn học, những cống hiến mà bao nhiêu sử gia, học giả, ngay cả Viện Sử Học Hà Nội trong cả mấy chục năm nay đã không làm được.
Sự phát hiện những sử liệu chưa từng được phát hiện của ông đã làm sụp đổ bao nhiêu định kiến và kết luận được xem là có thế giá từ lâu. Sáu bức thư trao đổi giữa Đạo Cao, Pháp Minh với Nho gia Lý Miễu vào thế kỷ thứ V do ông tìm thấy trong Hoằng Minh Tập là một tài liệu vô cùng quí giá trên cả ba mặt sử học, văn học và xã hội học. Nó làm đảo ngược niềm tin và sự hiểu biết cố định về lịch sử văn học thành văn của ta cũng như về trình độ ý thức, văn hóa của xã hội Việt Nam vào thế kỷ thứ V.
Chân Nguyên Toàn Tập (2 cuốn) trình bày một khuôn mặt lớn của văn học và tư tưởng Việt Nam đã không được ai lưu ý từ trước đến nay; trả lại tác giả cho một số những tác phẩm được kết luận là của vô danh như trường hợp tác phẩm Nôm Nam Hải Quan Âm.
Bộ sơ thảo lịch sử Phật giáo Việt nam (chỉ mới ra hai cuốn đầu) đã tái dựng lại những giai đoạn lịch sử không hề được nói đến trong những thế kỷ đầu. Những nghiên cứu về tình trạng Phật giáo thời Pháp xâm lăng cống hiến những chứng cứ mới nhất, cho ta một cái nhìn khác hẳn của ông mà tôi được biết.
Những cống hiến chưa được phổ biến, một số lớn đang nằm trong tay của Viện Sử Học Hà Nội, chắc hẳn rất nhiều. Chính Viện Sử Học này vào các năm 78, 79, đã hai lần cử chuyên viên vào Nam, trong đó có ông Đào Duy Anh, để nghe Lê Mạnh Thát diễn thuyết về những khám phá lịch sử mới của ông; và một lần, mời ông ra Hà Nội diễn thuyết. Lần ra Hà Nội trở vào, tôi nghe kể lại, ông nói với một số anh em ở Huế và Sài Gòn rằng, “ở Bắc, chẳng thấy tên nào khá”.
Tôi tin là ông thành thực, ngay thẳng ở câu đánh giá đó như chính con người ông từ thuở nào đến giờ.
Trở lên tôi đã nói đôi nét về Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát theo ký ức và những sự cảm giác còn lại của tôi trong hơn 20 năm quen biết. Một cách chủ quan (?) điều tôi muốn nói rút lại, họ là hai thiên tài hiếm quý của Phật giáo và Dân tộc, một là thiên tài tư tưởng và một là thiên tài sử học.
Hai thiên tài đó, chỉ ngay với những cống hiến đã có không thôi cũng đã là hai bóng dáng lớn và ảnh hưởng của những cống hiến đó chắc hẳn sẽ còn tác động lâu dài trong sinh hoạt tư tưởng và nghiên cứu lịch sử.
Từ nhìn về hai bóng dáng thiên tài lịch sử đó, tôi vẫn còn ngẩn ngơ tự hỏi, dù không hề ngạc nhiên và dù câu trả lời trong tôi đã có từ lâu, sức mạnh kỳ dị nào đã đẩy hai ông nhảy bước quyết định cho Tính Mệnh của mình và Tính Mệnh của cả Phật giáo và cả Dân tộc mà bản án tử hình do Hà Nội ban ra cho hai ông đã cho thấy tất cả tính cách khẩn thiết và trầm trọng trong bước nhảy quyết định này.
Lòng ngẩn ngơ tôi nói hai ông như thế cũng là lòng ngẩn ngơ nói về bao nhiêu anh em Tăng Ni khác đã cùng với hai ông đi vào cánh cửa ngục tù của bạo quyền, những Hồ Khắc Dũng, Lê Đăng Pha, Trương Tâm Lạc… và về riêng một bóng hình cô độc, đã bị chặt đầu hơn năm năm về trước tại chợ Hòa Bình, Đà Lạt.
“Hạnh phúc thay cho mình nếu được chết với một Trái Tim vằng vặc như Trăng Rằm.” Câu nói đó của Tuệ Sỹ, tôi nghe lại từ một người quen. Chết hay không, theo một nghĩa nào đó, thì Trái Tim của Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, của bao nhiêu anh em Tăng Ni khác cũng đã vằng vặc như Trăng Rằm để sống-như-chưa-từng-chết một cách uy linh và đầy yêu thương trên quê hương đầy hận thù, đày đọa và trong tận đáy lòng của con dân nước Việt, hôm nay và ngày mai.
Hòa Thượng: Thích Nguyên Hạnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét