Thứ Sáu, 22 tháng 12, 2017

CHUYỆN LÍNH TRƯỜNG SƠN: NƯỚC MẮT THÉP


Lại tết rồi, nhớ đồng đội và tết Tây Nguyên. Tôi lại nhớ người anh đồng hao của tôi đã mất. Anh cũng là lính 320A với tôi. Năm 1972 anh đang dạy cao đẳng Sư phạm tỉnh Phú Thọ thì nhập ngũ. Chuyện trong nhà nhưng tôi đưa lên đây vì cũng là tâm sự người một thời là lính yêu thương nhau. Nếu đồng đội và các bác có đọc xin hiểu cho là "không phải tôi vạch áo cho người xem lưng" tôi biết ơn. - Nguyễn Trọng Luân
                                                                   
Nước mắt thép

 Lạnh quá chừng. Hai anh em tôi co ro ngồi trong cái quán hàng ở dốc Hàng Than. Đống sắt lù lù bên canh lạnh ngắt.
Suốt đêm anh không ngủ. Tôi cũng vậy. Đốt thuốc lá rát cả mép, rì rầm nói chuyện.  Nhoáng cái đã  mười mấy năm. Ra khỏi chiến trường tôi lại là anh em cọc chèo với anh. Vừa là bạn chiến đấu, lại vừa là anh em. Bỗ bã thân tình như hồi ở lính Tây Nguyên.
Anh trở lại trường cao đẳng sư phạm giảng dạy. Nay anh làm nhà, nhờ tôi xin  giấy duyệt mua thép cho anh. Khó lắm. Dù mình là quản đốc phụ trách xưởng cán thép tận dụng. Thời ấy được thép tận dụng đã quí lắm rồi. Thép Liên Xô mà nhà nào có là mối nguy chứ chẳng chơi. Hóa đơn đâu? mua ở đâu ? chỉ có ăn cắp hoặc tham ô. Tù như bỡn. Từ trên quê xuống. Xách nải chuối cho cháu, giữa mùa đông mà mồ hôi tong tả. Tay bắt mặt mừng mà cứ hiện lên vẻ lo lắng, cái thứ lo lắng của người làm nhà mới, luôn nấp sau nụ cười gượng.  Vợ tôi bảo, anh cố lên công ty xin người ta chiếu cố, với lại anh là cán bộ chủ chốt chắc là được. Chiếu cố. Chiếu cố cái con khỉ, đúng là lí lẽ đàn bà.  Anh thì bảo, khó quá thì thôi. Cậu lại vì tôi mà khó ăn khó nói. Bữa cơm cứ vui gường gượng vì mối lo đang ở phía trước. Hôm sau tôi lên gặp Giám đốc công ty. Hồi ấy, Công ty tôi chuyên tái chế phế liệu, buôn bán cũng từ đồ thứ liệu. Buôn đồng nát lãi quan viên.  Nhưng chết vì cái anh cơ chế  nhiêu khê kìm hãm nên tư nhân thì họ làm được mà nhà nước thì lại không nên trò trống gì. Khó khăn  đây. May sao gặp luôn cả trưởng phòng kinh doanh ở đó. Nghe tôi lâm li trình bầy, Giám đốc nói thật nhẹ. Anh Triển làm sao nghiên cứu giúp đỡ cán bộ của mình,  sao cho ... có tình hợp lí. Anh trưởng phòng trẻ cười rất tươi. Anh sang phòng tôi ta bàn.
-   Thế này anh a. Anh biết đấy, giám đốc là ưu tiên anh lắm, chứ thép bán ra ngoài là khó. 
-   Vâng tôi biết. Chợt nghĩ trong đầu, giám đốc giao quyền cho trưởng phòng thì tất cả mấu chốt là ở đây. –  Anh cố gắng giúp tôi, chả gì cũng có chút công lao để gia đình bên vợ trông vào. Trưởng phòng cười. Đấy đấy quan trọng chứ,  trai nhà quê lấy vợ Hà nội mấy khi được dịp …
Trưởng phòng nhìn qua ô cửa sổ, đôi mắt thật xa xăm tay xoay xoay chén nước. Lúc ấy tôi nghĩ hắn cũng đang bâng khuâng như mình, cũng đang đặt hắn vào địa vị của tôi. Bỗng có tiếng chân bước ngoài cửa, trưởng phòng vội nói lớn:
-   Tình hình quí này xưởng anh phải thật cố gắng, nếu không anh sẽ bị cắt thi đua đấy.
Tôi giật mình, thôi chết, hỏng mất rồi, sao hắn lại chê trách mình vào đúng lúc này. Tiếng chân người đi xa. Khuôn mặt trưởng phòng trở lại như cũ. Tay lại nâng lên rồi hạ xuống chén nước chè nguội.
-   Giá thép bây giờ công ty xây dựng là bao nhiêu nhỉ, anh biết không?
-   Tôi biết.
Trưởng phòng lại đẩy chén nước về phía tôi.
-   Tôi không lấy giá cao hơn, anh hiểu chứ?
-   Dạ tôi hiểu.
Nhìn quanh hồi lâu, rồi hạ giọng. Trưởng phòng bảo:
- Hai ngàn sáu, nhưng duyệt hai ngàn. Anh lấy ba tạ hả.
Vâng anh giúp cho ba tạ. Tôi lập bập sướng run lên khi ra về còn nghe Trưởng phòng với theo mai lấy hả, anh lên lấy phiếu chỗ tôi.

Đêm ấy nói với vợ, họ duyệt hai ngàn một kí là hóa đơn chỉ ghi hai ngàn thôi. Nhưng giá hai ngàn sáu là mình phải nộp đủ. Sáu ba là mười tám. mười tám nghìn nộp ngoài. Vợ giật nẩy người. Khiếp! Hai cái ti vi đấy. Nhà thì vẫn đang ở nhẩy dù, com cóp đến bao giờ, xin xỏ đến bao giờ mới có chỗ chui ra chui vào. Anh chị ấy còn hơn mình chán ra ấy chứ. Nhìn khuôn mặt vợ tôi đến là thương. Cô ấy đúng chứ có sai đâu. Nói rồi, vợ tôi đứng dậy kéo cái chăn dù bộ đội cũ của tôi đắp thêm cho hai đứa con. Cái chăn  luôn bị hai thằng con đái dầm khai nức nở, lẩm bẩm, cái chăn len còn chả có cho con. Rồi hắn nói như nói cho mình,  kiến giả nhất phận, tôi đây này lấy chồng nghèo có dám xin gì của bố mẹ đâu, anh đâu có biết tôi kém bè kém bạn thế nào. Đến lúc này tôi không kìm được nữa giật phăng cúc áo tụt cánh tay nhằng nhịt sẹo chìa sát mặt vợ, đừng nói nữa, cô nhìn đây, anh ấy cõng tôi hàng nửa ngày trong bom đạn để bây giờ tôi còn ngồi đây với cô trong cái căn nhà nhẩy dù này, tôi lấy tiền chênh của anh ấy hay sao. Mạng sống còn chả tiếc vì nhau mà … mình nỡ quên … à.
Ngồi phịch xuống giường, tôi như người đeo ba lô leo dốc ngày nào, muốn thở thật mạnh mà không thở được. Phía đuôi giường vợ tôi ngồi dấm dứt.

 Trong tôi hiện về mùa mưa năm 1973 Tây Nguyên. Nước sông Pô Kô gầm thét, mấy chiếc bè chuối chở thương binh bị lật giữa dòng thác … Hồi ấy, đơn vị lật cánh về Gia Lai. Một mùa hè bom đạn tàn khốc vừa qua, lính tráng như người vừa trong trận lụt mới lên, lao vào củng cố bám địch và tác chiến ở địa bàn mới. Tôi và anh cùng bổ sung về F320. Chui trong cái hầm ẩm xì xì suốt mùa mưa năm ấy. Anh thương tôi, anh cứ như bà chị cả lo cho em. Những đêm giữ chốt hay những lần bám địch giành dân hay những lúc ngừng tiếng pháo anh mò đi kiếm cái ăn rồi ca cóng, và bao giờ cũng cứ luôn mồm ăn đi em, ăn để hoàn thành nhiệm vụ mà trở về đi học. Những lúc nghe anh nói vậy cứ như mình đang ở nhà, có bà chị cả đang dỗ dành các em.

Nửa đêm, anh thì thầm. Này, ngày xưa nếu mà chú chết ở trận đồn Tầm thì bây giờ tớ cũng chẳng có ai mà nhờ mua thép đâu nhỉ. Vớ vẩn, em mà ngoẻo rồi biết đâu anh lại có thằng em đồng hao oách hơn thì sao, nó lại là người Hà Nội nữa thì tha hồ mà khoe với người trên quê. Anh lại bảo, vài năm đi đánh nhau với giặc bọn mình về thấy lớ ngớ bỏ mẹ. Lớ ngớ là thế nào? em vẫn sống nhăn răng ở thủ đô đấy thôi. Anh thở dài, nhưng chú cũng khổ, cũng như anh thôi sướng gì đâu. Anh sờ sờ lên những cuộn sắt ngay dưới đít mình. Sương lạnh, những cuộn thép ươn ướt như mồ hôi trong đêm …

   Sáng sớm, anh theo tôi lên nộp tiền lấy hóa đơn. Anh chào hỏi nhân viên thật lễ phép. Thật đúng là người mô phạm. Lúc ở chỗ trưởng phòng ra, tay cầm hóa đơn thấy vẻ mặt anh xúc động, tôi nghĩ chắc xong được cái phần việc khó khăn này nên anh mừng đó thôi. Chứ anh làm sao biết cái vụ tiền chênh tiền lệch kia đâu. Hai anh em đẩy cái xe chất những cuộn thép to bằng cái thúng ra ngoài cổng ( thép cán tái chế hồi 86,87 ). Anh dừng lại mời anh bảo vệ điếu thuốc, mồ hôi lăn trên gò má nhô cao sau những ngày san nền tô vôi gánh cát.

Trời Hà nội về đêm thanh thản thế. Gió sông Hồng mùa lạnh tràn qua bãi An Dương, Phúc Xá  dàn dạt vào trong phố. Cái quán hàng chè chén đầu dốc Hàng Than giống như cái cây cổ thụ đỉnh đồi lúc độ đường.
Này, một dạo chú đi học trường chính trị sao lại đi làm phế liệu. Ồi dào học thì học thế chứ ai học trường đảng cũng làm to cả ai làm dân làm việc nhỏ. Học mà biết cách làm của đảng chứ, ai chả phải học, thế anh không học à? Lặng im, anh hút thuốc. Lại này, lúc ở Tây Nguyên chú được cử đi học sĩ quan sao lại không đi? Em thích về học đại học ở trường cũ hơn, ở đâu ra đi thì nỗi nhớ về nó nặng nề lắm. Ừ, chú cũng đa cảm, mà anh nào đa cảm chả sung sướng gì đâu, chả làm to được đâu.

Cả đêm, hai anh em cứ nhìn vào đống thép to lù lù đợi sáng ra có xe tải của chú em trai đưa công nhân đi thi tay nghề về chở hộ. Những cuộn thép lạnh ngắt, sương rỏ từng giọt hình vành khăn.

Anh làm nhà xong, ngôi nhà anh tự thiết kế, choãi chân như người đàn bà ngồi bế con. Cũng trát vôi quét ve màu, chỉ chừa cái tum để mộc như người đàn bà mặc áo đẹp, nhưng mái tóc để nguyên như gái nhà quê. Để nguyên như thế đến bây giờ.

Vài năm sau anh mất vì ung thư. Con cái anh chưa đứa nào yên bề. Chị tôi đã vất vả nay càng tất tưởi hơn. Từ Hà Nội có về thăm chị vài tiếng đồng hồ lại đi, chỉ thêm tội cho chị chạy cơm chạy quả gửi cho cháu ở thủ đô. Câu chuyện tiền vênh của anh, tôi thì đã quên và quả thực thương trường thời mở cửa nó cuốn đi ào ào, chuyện gửi giá chia chác trong hợp đồng kinh tế nó ngang nhiên như cỏ mọc trên đê vậy. Đôi lần vợ tôi kể lại chuyện đó với vẻ mặt thiu thiu buồn.

Thoáng cái đã hơn mười năm. Anh đã yên phận, về nằm trên ngọn đồi gần trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh. Con trai con gái tuốt tuột làm nghề giáo như anh. Đứa nào cũng ngoan. Ngôi nhà cũ của anh bây giờ đứng nép bên những ngôi nhà bề thế xanh đỏ cạnh một cái tháp nước cổ xưa, hiền lành, nhỏ nhắn nhưng dễ ưa hơn những ngôi nhà kề bên.

Trước tết, vợ chồng tôi bỗng nhận được điện thoại của chị. Chú Dì về chơi tôi muốn nói chuyện. Chả biết có việc gì mà chị gọi về lúc này. Một công đôi việc, chúng tôi về mang chút quà tết cho chị luôn, thế là vợ chồng khoan thai dáng vẻ người thủ đô về tỉnh.
Tối, cơm nước xong chị thắp hương lên bàn thờ anh. Lạ quá. Vợ chồng tôi nín thinh.
Chị nghẹn vài lần mới nói được.
-  Lúc anh mất có dặn chị, khi xưa chú mua thép đã phải bỏ ra mười tám ngàn tiền chênh nộp cho anh. Chú không nói nhưng anh thì biết, anh không muốn làm chú buồn nên lặng im …  - Chị lại nghẹn - … với lại … lúc ấy anh chị túng lắm, chú giúp cho, anh biết ơn chú lắm. Nhưng anh bảo anh mất rồi chị gắng sau này phải trả cho chú và dì . … Tết sắp đến, chả muốn kéo thêm năm nữa …  thôi thì chú và dì nhận cho … anh … đỡ áy náy ...

Tôi quay sang vợ, nước mắt đầm đìa trên má. Ngước tránh lên trần nhà  nơi những mảng vôi tróc lở như những  đồng xu, dấu tích của cốt bê tông kém chất lượng một thời.
  Nhìn lên di ảnh của anh, khói hương lơ mơ thanh thản, thấy hiện về một thời nằm hầm đánh giặc ở Tây Nguyên, khổ tận cùng mà ấm áp tình người. Lại hiện về một đêm ngồi bên đống thép trên đầu dốc Hàng Than. Sương đọng trên những cuộn thép nhấp nhính như nước mắt - nước mắt  thép. 
              
theo lời kể của Nguyễn Trọng Luân, cựu lính 320A, Trường Sơn. 2010


1 nhận xét:

nguyen mau phuc nói...

Tình người thật cảm động trong gian khó càng hướng về quá khứ thiên lương