Lê Đức Mẫn: Bài này do nhà văn Đào Quốc Vịnh gửi cho tôi (Lê Đức Mẫn), nhưng không có bình luận gì. Chắc là ông Vịnh khiêm tốn, bởi ông không phải là nhà Hán học. Vấn đề tác giả, nội dung và bản dịch tôi biết là đã bất ổn từ lâu, nay càng đọc càng thấy vỡ ra nhiều chuyện, mà tôi thì dốt nát quá, không dám luận bàn. Xỉn phép tác giả được chia sẻ để mọi người cùng tham gia bàn thảo. Trân trọng.!!!
***
VỀ BÀI THƠ “THẦN”
Bài thơ “Thần” mà người Việt hầu như ai cũng thuộc:
“Nam quốc sơn hà nam đế cư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Tương truyền là của Lý Thường Kiệt, song một số học giả tân thời thống nhất lại là không rõ tác giả, và xuất hiện từ thời Lê Đại Hành. Cũng ổn thôi, vì thời ấy, vị vua anh hùng này đã chỉ huy quân dân Đại Cồ Việt đánh tan quân xâm lược nhà Tống. Và cũng là vị vua duy nhất trong lịch sử sau khi chết không được đặt tên thụy, cứ phải mang danh “đại hành Hoàng đế” cho đến tận bây giờ. Thụy là tên hiệu của người ngủ giấc vĩnh hằng, còn “đại hành” là danh từ chung, chỉ vua chết, vua nào chết cũng gọi là “đại hành” (cuộc đi lớn), cũng như Phật chết gọi là “đại bát” (Niết Bàn) – cuộc dạo chơi lớn trong Niết Bàn. Chắc không phải do triều đình nhà Tiền Lê quên, mà thuở ấy, sự tiếp thu văn hóa phương Bắc của các cụ ta vẫn còn lúng túng chăng?
Bài thơ trên được cụ Trần Trọng Kim dịch, dùng cho sách giáo khoa ngót trăm năm nay, những thế hệ chúng tôi ai cũng thuộc lòng:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rõ ràng sách Trời đã phân định
Cớ sao quân giặc dám xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”
Mãi đến cuối những năm 80 của thế kỉ trước, một lần đến hầu chuyện cố họa sĩ Phạm Công Thành ở Yết Kiêu, bác Thành là người tinh thông Dịch lý, tôi đã được bác giảng cho, rằng dịch như thế là sai, ngay câu đầu tiên.
Không có “ông vua” nào ở đây cả. “Nam đế cư” là ngôi “đế” đóng tại phương Nam, thì cả “Sông núi nước Nam” thuộc về ngôi đế, điều đó đã phân định rõ trong “sách Trời”. Sách Trời ở đây bác Thành giảng là kinh Dịch, phía Nam là phương vị của quẻ Ly (hỏa). Mặt trời, vua là “tượng” của quẻ Ly, cũng như mặt Trăng, bề tôi là “tượng” của quẻ Khôn. Đây là lý do bà phu nhân họ Nhữ vì nổi giận mà bỏ ông Văn Định, vì ông đã đem chữ “nguyệt” (mặt Trăng) ra dạy con là Văn Đạt (tức Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Bác Thành chỉ giảng đến đấy, tôi cũng phục lắm rồi. Sau này, tôi còn phát hiện thêm, rằng “thiên thư” dịch nghĩa đen là sách Trời, nhưng phải hiểu là “thiên văn”, cụ thể là Thái Ất, một pho sách về thiên văn, lấy sao Bắc Đẩu làm trung tâm, dùng số học để “đọc” vũ trụ, được các cụ ta áp dụng vào việc binh, nhìn sao để bày trận, trương cờ, xem gió để biết thế địch, ta... Chính Đức Hưng Đạo Đại Vương cũng dùng Thái Ất để soạn “Binh Thư Yếu Lược”, không thèm coi “Binh Pháp Tôn Tử” ra cái gì. Kết quả đã ngăn lũ phương Bắc (quẻ Khảm) thành công, bảo vệ “Nam quốc sơn hà”, lần nào cũng thắng lợi.
Pho Thái Ất có từ trước thời vua Lê Đại Hành, do người Việt làm ra, không phải người Hán. Nên các cụ ta dẫu có lúng túng trong việc đặt tên thụy cho “đại hành Hoàng đế” theo tục phương Bắc, thì cũng rất giỏi thiên văn rồi, cho nên mới khẳng định một cách hùng hồn như thế.
Tiếp đến câu thứ ba thì dịch như trên là ổn. Nhưng câu kết thứ tư thì sai nghiêm trọng, khiến nhiều thế hệ như chúng tôi bị đánh lừa ngót trăm năm nay.
Câu kết: “Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” thì hai chữ “nhữ đẳng” không có nghĩa là “chúng bay” (trỏ quân giặc), mà là “các ngươi” (trỏ tướng sĩ của ta). Trong “Hịch tướng sĩ”, Đức Hưng Đạo Đại vương đã dùng hai chữ “nhữ đẳng” tới 16 lần, đều được các cụ dịch là “các ngươi” cả. Điều kì lạ là chính cụ Trần Trọng Kim cũng dịch “Hịch tướng sĩ” như thế, mà ở đây lại dịch thành “chúng bay”?
Và như một sự cố ý? Cụ Kim đã bỏ qua không dịch hai chữ tiếp theo là “hành khan”. “Nhữ đẳng hành khan” nghĩa là nếu các ngươi chỉ ngồi xem (mà không làm gì cả), thì sẽ “thủ bại hư”, nghĩa là tự chuốc lấy thất bại. Rõ ràng là cảnh báo tướng sĩ của mình, chứ không phải cảnh cáo quân giặc.
Với một người có kiến văn trung bình, cũng đủ hiểu từ cái “tứ” của câu này, mà Đức Trần Hưng Đạo đã viết nên Hịch tướng sĩ bất hủ. Đoạn Ngài viết: “Nhữ đẳng tọa thị chủ nhục, tằng bất vi ưu / Thân đương quốc sỉ, tằng bất vi quý…” (Các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo / thấy nước bị làm nhục mà không biết sợ…), rõ ràng là cùng một “tứ” với câu “Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”. Binh pháp từ Thái Ất mà ra, nhưng thuận đạo trời cũng chưa chắc đã cát, nghịch đạo trời cũng chưa chắc đã hung, mất nhân tâm thì chắc chắn bại là nghĩa như vậy.
Cụ Trần Trọng Kim là chính khách, là Nho gia, là học giả… mà dịch như thế thì quả cũng kì lạ, khiến cho đời nay coi bài thơ “thần” là bản “tuyên ngôn” đầu tiên (thực ra chỉ đúng với 2 câu đầu). Và biết bao thế hệ học trò, cho đến tận bây giờ vẫn thuộc lòng sự sai sót chết người ấy.
Thậm chí ngày nay còn tệ hại hơn cả bản dịch của cụ Kim, là SGK ngữ văn lớp 8, còn “cải tiến” bằng bản dịch của Ngô Linh Ngọc (chắc cũng tiến sĩ, bộ sậu của GS Thuyết). Sự thậm tệ đến mức dở chữ, dở người, cười không nổi ấy của tác giả Ngô Linh Ngọc như sau:
“Đất nước Đại Nam, Nam đế ngự
Sách trời phân định rõ non sông
Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm
Bay hãy chờ coi chuốc bại vong”
Hehe
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét